Saturday, October 17, 2009

*Ðêm nhạc vinh danh Lê Văn Khoa, “Người Viết Lịch Sử Việt Nam Bằng Âm Nhạc”

Một sinh hoạt văn học nghệ thuật rất giá trị đã diễn ra tại Long Beach, California vào tuần qua nhằm vinh danh nhà soạn nhạc Lê Văn Khoa đã được Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ cùng các thân hữu tổ chức thật thành công. Ðáng chú ý nhất là ngoài những nghệ sĩ chuyên môn trình diễn loại nhạc giao hưởng với dàn đại hòa tấu, còn có 4 ca sĩ trẻ từ Trung Tâm Asia tham dự. Ðó là các ca sĩ Y Phương, Bích Vân, Nguyễn Hồng Nhung và Lâm Nhật Tiến. Toàn bộ SBTN cameramen và ê-kíp thu hình của SBTN, dưới sự chỉ huy của "đạo diễn" Trúc Hồ đã có mặt trong đêm trình diễn để trực tiếp thu hình trọn vẹn chương trình giá trị nêu trên.


Ðêm nhạc vinh danh Lê Văn Khoa,
“Người Viết Lịch Sử Việt Nam Bằng Âm Nhạc”

Vào ngày Thứ Bẩy, 11 tháng 10, 2008 vừa qua một đêm nhạc giao hưởng “độc nhất vô nhị” và vô cùng giá trị của người Việt Nam từ trước đến nay đã được tổ chức tại Carpenter Performing Arts Center, thành phố Long Beach, California nhằm vinh danh nhà soạn nhạc tài ba Lê Văn Khoa. Ðêm nhạc này đã được Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ và một số thân hữu cùng đứng ra tổ chức với trưởng ban là nhạc sĩ Nam Lộc.

Có thể nói buổi trình diễn này đã thành công thật tốt đẹp với một chương trình kéo dài gần 4 tiếng đồng hồ ở một địa điểm trang trọng, với sức chứa hơn 1,200 ghế ngồi, đầy nghẹt khán thính giả, không còn một chỗ trống. Ngay từ khi bắt đầu khai mạc lúc 7:30 tối thì mọi người trong rạp đã ngồi im lặng để thưởng thức âm nhạc một cách say mê tưởng chừng như ở đó bạn có thể nghe tiếng thở của người ngồi bên cạnh. Không gian chỉ vỡ oà sau mỗi màn trình diễn qua những tiếng vỗ tay khen ngợi khắp nơi. Nếu nói đây là một chương trình “có một không hai” thì cũng không phải là quá đáng vì ban tổ chức đã huy động một giàn nhạc hợp tấu symphony orchestra (sau này thường gọi là “giao hưởng”) với hơn 60 nhạc công Việt, Mỹ và một số quốc gia khác cùng với hàng chục ca sĩ tài dành trình diễn thì mới thấy được giá trị và mức độ trang trọng của chương trình này.

Ngoài những ca sĩ chuyên hát nhạc thính phòng, nhạc kịch opera hoặc những giọng nữ cao vút (gọi là soprano), giọng nam tenor… đã thành danh nhiều năm, từng cộng tác với ban hợp xướng Ngàn Khơi và Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ như Kim Tước, Quỳnh Giao, Bích Liên, Ngọc Hà, Lê Hồng Quang, Bích Vân, Phạm Hà .v..v.., khán giả đặc biệt chú ý đến những ca sĩ trẻ từ Trung Tâm Asia đặc biệt xuất hiện ở buổi trình diễn này là Y Phương, Lâm Nhật Tiến và Nguyễn Hồng Nhung. Dù đây là lần đầu tiên họ trình diễn chung với dàn nhạc giao hưởng, nhưng ba ca sĩ từ trung tâm Asia này đã hát thật xuất sắc và hoàn thành trọng trách khó khăn. Họ đã không hổ thẹn khi đứng chung trên một sân khấu với các bậc đàn chị như Kim Tước, Quỳnh Giao hoặc những giọng hát chuyên nghiệp về opera hay soprano khác.

Ðặc biệt nhất là nữ ca sĩ Nguyễn Hồng Nhung đã mang một trách nhiệm thật quan trọng và chịu đựng áp lực nặng nề khi cô được chọn là người hát ca khúc mở màn cho đêm nhạc hội. Ðó là một bài hát thuộc loại bán cổ điển serenade, nhưng là serenade Việt Nam do nhạc sĩ Lê Văn Khoa sáng tác có tựa đề là “Nhạc Chiều Năm Ðó”. Ở bài hát này những lời ca thân thiết của quê hương chúng ta đã được Nguyễn Hồng Nhung diễn tả cùng với phần hòa tấu của giàn nhạc khiến người nghe như thả hồn vào những âm thanh vô cùng quyến rủ, tình tứ. Nhiều người đã từng say mê Serenade của Schubert và Serenata của Tosseli thì hôm nay và sau này sẽ nhớ mãi serenade “Nhạc Chiều Năm Ðó” của Lê Văn Khoa.


Trước đó vài phút, chương trình đã được mở màn bằng một tấu khúc trích trong “Vietnam 1975 Symphony” do ban nhạc của Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ (Vietnamese American Philharmonic / VAP) trình diễn. Khán giả đã ngạc nhiên khi nghe những âm thanh quen thuộc của làn điệu dân ca miền nam với những nốt nhạc ngũ cung như “tang tình tang tính tang, tính tang tình tang tính tình tang” mà nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã khéo léo mang vào tấu khúc “Vietnam 1975” này. Kế đến, nhạc sĩ Nam Lộc với tư cách là Trưởng Ban Tổ Chức đã ngỏ lời chào mừng quan khách như sau:

"Thay mặt ban tổ chức cùng Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ, tôi xin được trân trọng chào đón toàn thể quý vị hiện diện trong buổi nhạc hội vinh danh nhạc sĩ Lê Văn Khoa, "Người Viết Lịch Sử Bằng Âm Nhạc", mà ngay chính tên tuổi cuả ông cũng đã chiếm một khoảng không nhỏ trong phần lịch sử đó.

Tuy nhiên, trong số quý vị quan khách tham dự ngày hôm nay, có người chỉ biết Lê Văn Khoa là một nhạc trưởng và là một nhà soạn nhạc tài ba. Có người thì biết Lê Văn Khoa qua những tác phẩm nhiếp ảnh giá trị và đầy nghệ thuật. Còn một số người khác thì chỉ biết ông là một nhà giáo hiền lành và thường khuyến khích con cái theo dõi những chương trình giáo dục trên đài truyền hình do "thầy Khoa" thực hiện. Riêng tôi thì chỉ được hân hạnh quen biết, được học hỏi và được hoạt động cùng với ông trong lãnh vực xã hội, và phục vụ cộng đồng từ nhiều năm qua.

Với những đóng góp vừa kể, nên nhiều người thắc mắc rằng, tại sao cho đến ngày hôm nay mới có buổi họp mặt để vinh danh một nhân tài hiếm quý của người Việt tại hải ngoại? Thưa quý vị, đó chính là vì sự hoạt động thầm lặng, kín đáo, cộng với lòng khiêm tốn của một người mà chúng ta sẽ nhắc đến và được nghe thật nhiều về ông trong buổi tối hôm nay..."

Sau đó nhạc sĩ Nam Lộc đã giới thiệu hai MC cho chương trình này là cô Diệu Quyên, xướng ngôn viên của đài truyền hình SBTN và nhạc sĩ Hoàng Trọng Thụy từ Vietnam Cali. Radio (VNCR) cùng điều khiển chương trình.

Hai người MC này đã khéo léo dẫn dắt chương trình một cách rất gọn gàng, chừng mực và lịch sự tuy thỉnh thoảng cũng có những câu nói dí dõm, tạo cho không khí chung quanh trở nên nhẹ nhàng hơn nhưng rất thích hợp với tinh thần của một buổi nhạc thính phòng.

Gia tài nghệ thuật của nhà soạn nhạc Lê Văn Khoa thật là to lớn, nhưng ở chương trình này, ban tổ chức chỉ thu hẹp vào lãnh vực sáng tác âm nhạc của ông. Ðúng như chủ đề đã nêu ra, nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã diễn tả những thời điểm quan trọng của giòng lịch sử Việt Nam, trong đó có cá nhân ông và cả chúng ta như bị cuốn hút vào những vận nước điêu linh theo từng năm tháng. Khi Nguyễn Hồng Nhung trình diễn xong “Nhạc Chiều Năm Ðó” thì những âm thanh tiếp nối trên sân khấu như đưa mọi người trở về vùng trời quê hương của thời gian đúng bốn mươi năm về trước. Ðó là thời điểm của biến cố Mậu Thân khi quê hương đắm chìm trong khói lửa khắp nơi. Ngồi im lặng một mình trong bóng đêm khi Sài Gòn đang trong giờ giới nghiêm, phố phường tĩnh mịch, nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã mơ ước một bình mình rạng rỡ trên quê hương thanh bình. Trong đêm đó ông đã hoàn thành tác phẩm “Bình Minh Quê Hương” làm kinh ngạc mọi người. Tiếng hát Lê Hồng Quang đã đưa khán giả trở về thời dĩ vãng đau thương đó của quê hương Việt Nam tang tóc. Nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã mơ ước một quê hương Việt Nam với :
“Trời xanh mơ màng và gió dịu dàng,
Nhẹ bông hoa vàng tuyệt thay
đất ta Việt Nam, nước ta Việt Nam, sông núi ta Việt Nam

Với thôn nữ hiền, góp sức thanh xuân
tắm nắng vàng tươi, đẹp nụ cười duyên ….”

Sau đó là những tấu khúc tràn đầy kỷ niệm trong đời nhạc sĩ Lê Văn Khoa như Remembrance với nét nhạc đơn sơ nhưng tràn đầy tình cảm khi ông viết riêng cho người con gái lớn ở tuổi trưởng thành. Khúc nhạc này đã được nhạc sĩ Irina Starodub, giáo sư của nhạc viện quốc gia Tchaikowsy tại Kiew, một người đã chiếm nhiều giải thưởng âm nhạc quốc tế ngồi độc tấu piano với dàn nhạc phía sau. Ít người biết là một người con trai của nhạc sĩ Lê Văn Khoa là nhạc sĩ Lê Minh Khải đã sáng tác một bài luân vũ rộn ràng. Ðặc biệt bài luân vũ “Tình Mơ” này đã được nhạc sĩ Lê Văn Khoa soạn lại cho dàn nhạc giao hưởng VAP do nhạc trưởng Nguyễn Khánh Hồng điều khiển và giới thiệu với khán giả hôm nay.

Ngoài những ca khúc do nhạc sĩ Lê Văn Khoa sáng tác trên đất Mỹ như “Trăng Thu” do hai ca sĩ Kim Tước và Quỳnh Giao song ca , “The Last Time” (Lần Cuối) do Ngọc Hà trình bày song ngữ Việt-Anh, “Gọi Nhớ” do cô giáo thanh nhạc người Phi Luật Tân, Melody Versoza hát bằng tiếng Anh và những màn độc tấu, hòa tấu các tác phẩm khác của ông khán giả còn có dịp thưởng thức những bài hát nổi tiếng khác được nhạc sĩ Lê Văn Khoa soạn hòa âm cho dàn nhạc symphony. Ðó là tuyệt tác “Hòn Vọng Phu” của nhạc sĩ Lê Thương do ban hợp xướng Ngàn Khơi trình diễn với sự điều khiển của nhạc trưởng Vũ Tôn Bình. Một bài hát khác là “Qua Suối Mây Hồng” của nhạc sĩ Phạm Duy cũng được Bích Liên đơn ca. Nhờ tài hòa âm và phối khí cho dàn nhạc giao hưởng của nhạc sĩ Lê Văn Khoa mà những bài hát quen thuộc này trở nên sống động, hùng tráng hơn lên nhất là khi được phụ hoạ bằng những âm thanh của bộ gõ hoặc chiêng trống vang lừng.

Sau ca khúc này thì nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, tác giả của những bài du ca nổi tiếng đã được ban tổ chức mời lên để tuyên dương thành tích họat động của nhạc sĩ Lê văn Khoa, đồng thời giới thiệu một video clip ngắn về tiểu sử của "Người Viết Lịch Sử Việt Nam Bằng Âm Nhạc".

Chương trình được nối tiếp với tiếng đàn Cello của nhạc sĩ Nhật Bản Hitoshi Suzuki qua bản Memory của Lê văn Khoa. Có một ca khúc cũng được nhạc sĩ Lê Văn Khoa sáng tác ở Sài Gòn vào khoảng cuối thập niên 50 rất lạ lùng và rất ít người biết đến là bài “Nhớ Tiếng Xưa”. Ca khúc này lạ lùng vì nó không theo một khuôn mẫu của loại nhạc phổ thông thường thấy. Giai điệu nhạc đang dâng cao lên lần lần thì đột ngột kết thúc thật nhanh và thật gọn. Bài hát này lần đầu tiên được hát ở hải ngoại vào đêm vinh danh tác giả với giọng hát cao vút của nữ ca sĩ Y Phương chắc chắn đã gây ngạc nhiên cho nhiều khán thính giả.


Ở chương trình video Asia 54 “Trầm Tử Thiêng - Trúc Hồ” khán thính giả khắp nơi đã được nghe các nghệ sĩ ở trung tâm Asia hợp ca bài hát “Con Ðường Việt Nam” của nhạc sĩ Trúc Hồ, lời Anh Bằng. Bài hát này đã được nhạc sĩ Trúc Hồ sáng tác trong khi đang đi trên những con đường ở thủ đô nước Tiệp Khắc. Lúc đó anh đã “trông nước người mà nghĩ đến nước ta” và hồi tưởng lại những kỷ niệm vui buồn của thời thơ ấu ở quê nhà. Nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã chú ý đến bài hát này, nên ông đã soạn lại phần hoà âm cho dàn nhạc giao hưởng và điều này cũng cho thấy ông đã chú ý đến những nhạc sĩ trẻ trong cộng đồng chúng ta ở hải ngoại. Hôm nay Lâm Nhật Tiến đã đơn ca bài hát này với dàn nhạc đại hòa tấu.

Nói về những ca sĩ trẻ cùng góp tiếng cho chương trình này thì phải công nhận phần trình diễn của ca sĩ Bích Vân được coi là một trong những tiết mục thành công nhất. Cô trình bầy bản “Mơ Về Quê Tôi” của nhạc sĩ Lê Văn Khoa, diễn tả tâm trạng xa xứ, nỗi đau hãi hùng trong bước đường đi tìm tự do, đó cũng chính là tâm trạng và hoàn cảnh của Lê Văn Khoa cùng của biết bao người trong cộng đồng ly hương đã phải trải qua. Bích Vân diễn tả ca khúc “Mơ Về Quê Tôi” một cách rất điêu luyện, sống động, thiết tha, và lôi cuốn, làm sững sờ người nghe từ đầu đến cuối bài hát. Khán giả đã vỗ tay tán thưởng cho màn trình diễn này tưởng như không muốn dứt.

Ngoài phần hoà ca điêu luyện của ban hợp xướng Ngàn Khơi, thì một trong những tiết mục hợp ca nổi bật là phần trình diễn của ban tứ ca Thùy Dương với bài dân ca “Xe Chỉ Luồn Kim”, hoà âm bởi Lê Văn Khoa, gồm 4 giọng hát Thùy Hạnh, Kim Yến, Tiến Dũng và Ngọc Diệp, một giọng ca mới thay thế cho Vũ Tuấn Đức.


Vào phần cuối, trước khi chấm dứt chương trình, nhạc sĩ Nam Lộc, trưởng ban tổ chức đã thay mặt khán thính giả mến mộ, cùng ban tổ chức cũng như Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ, trao tấm plaque tri ân đến nhạc sĩ Lê Văn Khoa. Toàn thể hội trường đều đứng dậy để chào đón và vinh danh ông.
Sau khi nhạc sĩ Lê Văn Khoa ngỏ đôi lời tâm tình cùng tất cả mọi người, thì ngay đó nhạc trưởng Khánh Hồng đã trân trọng kính mời và trao lại chiếc đũa điều khiển dàn nhạc để Lê Văn Khoa bước lên bục điều khiển chung khúc “Hymn To Freedom” (Ca Ngợi Tự Do) với giàn nhạc giao hưởng VAP cùng phần hợp ca cuả ban hợp xướng Ngàn Khơi.

Cuối cùng toàn thể nghệ sĩ tham dự trong chương trình đã cùng bước ra sân khấu để chung vui với nhạc sĩ Lê Văn Khoa đồng thời chào từ giã khán thính giả. Hầu như mọi người đều ở lại cho đến giờ phút chót và ra về trong mối lưu luyến, mãn nguyện với một đêm trình diễn âm nhạc hiếm hoi và đầy giá trị nghệ thuật của nền âm nhạc Việt Nam.

Saturday, September 19, 2009

*Những Nhạc Sĩ Vô Cùng Bất Hạnh Trong DVD Asia 55 “ 75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2”.

Đã có nhiều bài viết và nhận xét khác nhau của khán thính giả khắp nơi về chương trình Asia 55 chủ đề “75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2 – Hát Với Thần Tượng” được phát hành cách đây vài tuần. Theo ý kiến của đa số khán giả, DVD Asia 55 kỳ này đã đáp ứng được những đòi hỏi của mọi người như: mới lạ, rực rỡ về ánh sáng, màu sắc và âm thanh qua các tiết mục lồng trong những bài hát có quen, có lạ, có mới, có cũ, có vui, có buồn..v..v.. khiến cho người xem như bị lôi cuốn từ đầu tới cuối. Thêm một lần nữa, Trung Tâm Asia đã cống hiến cho chúng ta một tác phẩm thật tuyệt vời và đầy giá trị về nghệ thuật cũng như lịch sử của nền âm nhạc Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi xem xong cuồn DVD Asia 55 này, những cảm xúc và ấn tượng để lại trong đầu (khiến cho nhiều người băn khoăn, suy gẫm) lại là những gì?

*Những Nhạc Sĩ Vô Cùng Bất Hạnh Trong
DVD Asia 55

“ 75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2”.

Có thể nói đó chính là những hình ảnh khó quên của vài nhạc sĩ xuất hiện trong Asia 55 qua những đoạn video clips phỏng vấn ngắn ngủi nhưng vô cùng quý hiếm. Tiêu biểu nhất vẫn là những nhạc sĩ Văn Cao, Trúc Phương, Thăng Long, Ðỗ Lễ, Châu Kỳ, Nguyễn Văn Tý … Cho dù họ đã lìa trần hay còn sinh sống ở quê nhà, nhưng họ có một điểm chung là đã làm “kiếp tằm nhả tơ” để đem đến cho đời biết bao ca khúc tuyệt vời suốt mấy chục năm qua. Nhưng đàng sau những tác phẩm “để đời” ấy là những quãng đời u tối, nhọc nhằn và phần số vô cùng nghiệt ngã mà ít có ai ngờ tới.

Qua cuồn DVD Asia 55 kỳ này, lần đầu tiên chúng ta được nghe và biết chút ít về những nhạc sĩ khá bất hạnh nêu trên, nhưng còn biết bao nhiêu câu chuyện khác về họ mà chúng ta chưa biết và cũng không hề thấy đề cập đến trong những đoạn phim phỏng vấn. Tìm hiểu thêm về cuộc đời của họ, chúng ta lại càng đau xót nhiều hơn cho những kiếp đời mà tạo hóa đã “bắt phong trần, phải phong trần” cho đến mức tang thương cùng tận. Vậy mà số phận của họ vẫn đúng là cái số “con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” ?

Xin cùng nhau tìm hiểu thêm nơi đây vài quãng đời bi thương và tiêu biểu của những nhạc sĩ đã xuất hiện trong DVD Asia 55 chủ đề “75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2”:


* Nhạc sĩ Trúc Phương (1939-1995):

Một trong những nhạc sĩ nổi bật ở chương trình này qua đoạn video clip ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn có 2 phút mà thôi là nhạc sĩ Trúc Phương. Có lẽ đây là lần đầu tiên nhiều người trong chúng ta được thấy hình ảnh sống động và nghe chính giọng nói của nhạc sĩ rất nổi tiếng này tỏ bày tâm sự của ông.

Phải nhìn nhận một điều là, hầu như các bài hát của ông có một sức thu hút mãnh liệt trong suốt hơn bốn chục năm qua và mãi cho đến ngày hôm nay ở bất cứ nơi nào có người Việt Nam đang sinh sống. Tài năng của ông không thua kém gì các nhạc sĩ Lam Phương, Lê Dinh, Thanh Sơn … với giòng nhạc đặc biệt mang âm hưởng miền Nam. Nhưng đời sống của ông thì lại trải qua quá nhiều bất hạnh và đau thương, khốn khổ cho đến tận những giờ phút cuối cùng. Tiếc là Asia 55 chỉ cho chiếu phần phỏng vấn nhạc sĩ Trúc Phương, mà không tường thuật thêm chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của ông, nên vẫn còn có nhiều người thắc mắc về đời sống của người nhạc sĩ tài danh này.

Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sanh năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Cha ông là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng trai Thiện Lộc thì rất lãng mạn, yêu thích văn nghệ nên đã tự học nhạc, và bắt đầu sáng tác những bài hát đầu tiên lúc vừa 15 tuổi. Xung quanh nhà ông có trồng rất nhiều tre trúc, nên từ nhỏ ông đã yêu mến những âm thanh kẽo kẹt của tiếng tre va chạm với nhau và sau này đã chọn tên là Trúc Phương để nhớ về thời thơ ấu của ông với những cây tre trúc. Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, rồi lên Sài Gòn dạy nhạc và bắt đầu viết nhạc nhiều hơn. Bài hát “Chiều Làng Quê” được ông sáng tác vào thời gian này để nhớ về khung cảnh thanh bình ở làng xóm của ông (do Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc trình bày trong Asia 55). Một bài khác cũng rất nổi tiếng với giai điệu trong sáng, vui tươi là “Tình Thắm Duyên Quê”.

Không tiền bạc và không một ai thân quen ở đô thành Sài Gòn, ban đầu Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đình giàu có bên Gia Định và dạy nhạc cho cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu sau thì cô gái này đã yêu chàng nhạc sĩ nghèo tạm trú trong nhà, vì con tim cô ta đã dần dần rung động trước tài năng của Trúc Phương. Biết được chuyện này, ba mẹ của cô gái bèn đuổi Trúc Phương đi nơi khác. Sau chuyện tình ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm nhạc và càng sáng tác hăng hơn. Nhưng những bài hát sau này lại nghiêng về chủ đề tình yêu đôi lứa với những nghịch cảnh chia lià. Theo lời khuyên của những người bạn mới quen trong giới văn nghệ, Trúc Phương đã cộng tác với vài nhạc sĩ khác để thành lập một ban nhạc nhỏ đi lưu diễn khắp nơi như Biên Hòa, Long Khánh, Vũng Tàu …(trong đó có nhạc sĩ Trần Trịnh, tác giả bài Lệ Đá sau này).

Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng với bản tính trầm lặng, bi quan và khép kín sau những cuộc tình dang dỡ, những bài hát sau này của ông thường mang âm điệu u buồn, thê lương như phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam. Nổi tiếng nhất là “Nửa Đêm Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong Kỷ Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh mất ân tình cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước không chung lối về …”. Có người cho là bài hát này ông đã viết ra sau khi bị thất tình một cô ca sĩ lừng danh thời đó.

Tài năng của Trúc Phương chói sáng vào những năm 1965-1970 khi ông bước chân vào quân ngũ và viết những bài tình ca thời chinh chiến như “Trên 4 Vùng Chiến Thuật, 24 Giờ Phép, Bông Cỏ May …”. Chính ca sĩ Chế Linh đã nhiều lần tâm sự là nhờ nhạc sĩ Trúc Phương và Châu Kỳ đã dẫn dắt ông vào con đường ca hát với những nhạc phẩm rất thích hợp cho giọng hát của ông. Đặc biệt nhất là hai bài hát “Trên 4 Vùng Chiến Thuật” và “Thói Đời”. Cũng chính hai bài hát này đã khiến cho ca sĩ Chế Linh được quá nhiều người ái mộ, từ những anh lính chiến ngoài tiền đồn hẽo lánh xa xăm cho tới giới học sinh, thành phần lao động, phụ nữ và trẻ con ở hậu phương yên bình... Hầu như ai ai cũng hát được lõm bõm vài câu nhạc của Trúc Phương. Thế hệ ca sĩ đàn em sau này như Đặng Thế Luân cũng đã diễn tả rất truyền cảm bài “Để Trả Lời Một Câu Hỏi” và “Đêm Tâm Sự” của nhạc sĩ Trúc Phương trong CD “Khóc Mẹ Đêm Mưa” do Trung Tâm Asia thực hiện cách đây vài tháng. Nhưng nổi bật hơn cả là ca sĩ trẻ Ðan Nguyên hát với thần tượng Chế Linh bài "Thói Ðời" ở Asia 55 đã gây được rất nhiều tiếng vang, khiến giới trẻ có dịp tìm hiểu thêm về tác giả bài hát này.

Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất đặc biệt của riêng ông, mà khó lầm lẫn với người khác được. Tuy nhạc của ông có âm hưởng cổ nhạc miền nam, nhưng nó lại không giống như những bài hát của Lam Phương, Thanh Sơn, Lê Dinh. Nó có vẻ trầm buồn, ray rức, ưu tư trước thời cuộc dạo đó (là chiến tranh triền miên) và buồn phiền vì những mối tình dang dở, trái ngang. Nên khi soạn hòa âm cho những bài hát của Trúc Phương, nhạc sĩ hòa âm phải sử dụng ít nhất là một trong vài loại nhạc khí cổ truyền của miền Nam như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn cò (hoặc violon) thì mới có thể diễn tả hết cái hay của giòng nhạc Trúc Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi muộn phiền, nhức nhối tim gan của ông sau này.

Điều trớ trêu là tuy tên tuổi và tài năng sáng chói, nổi bật so với những người viết nhạc thời bấy giờ, nhưng tình duyên của nhạc sĩ Trúc Phương thì vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970, Trúc Phương được một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, cao sang đài các đem lòng yêu thương ông, do sự rung cảm truyền đạt từ tài năng và những tác phẩm tuyệt vời của ông. Kết cuộc là cả hai đã nên duyên chồng vợ. Tuy sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng đời sống của họ rất là nghệ sĩ. Đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Trúc Phương và sức sáng tạo nghệ thuật của ông càng sung mãn hơn bao giờ hết với hàng chục bài hát ra đời mỗi năm. Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này lại không kéo dài được lâu bền. Bởi vì sau một thời gian chung sống với nhau, những tình cảm ban đầu trở nên phai lạt dần theo năm tháng và hai người đã lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi đúng vào trường hợp này “khi hai mơ ước đã không cùng chung hướng về” và “đường vào tình yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn” ? Giờ thì nhạc sĩ Trúc Phương âm thầm đau khổ trong cô đơn và lại vùi đầu vào men rượu để sáng tác thêm nhiều bài hát trong nỗi đau thương cùng cực, pha chút chán chường cho nhân tình thế thái.

Bạn bè thường gặp ông ngồi yên lặng bên những ly rượu nơi một quán nhỏ ở đường Tô Hiến Thành, quận 10, gần nhà của ông. Có lẽ đó là một cách làm cho nhạc sĩ tạm quên đi những cay đắng của tình đời. Đó cũng chính là lúc bài hát “Thói Đời” được sáng tác với những câu như “Bạn quên ta, tình cũng quên ta, nên chung thân ta giận cuộc đời, soi bóng mình bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi lên tròng mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta … “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám môi …”. Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi văn hoa của thuốc lá. Khi những người đang yêu nhau, nhớ nhau, hẹn hò nhau thì châm điếu thuốc thả khói mơ màng, nhìn rất thơ mộng và nghệ sĩ [ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần, anh nói khẽ gớm sao mà nhớ thế (Hồ Dzếnh)]. Nhưng đối với Trúc Phương trong “Thói Đời” thì điếu thuốc lá “cỏ tương tư” lại biến thành ra “cỏ ưu tư” làm cho đôi môi trở nên màu xám xịt qua những nỗi đau thương, nhung nhớ ngập tràn. Những giọt rượu nồng của cõi “trần ai” này lại càng gợi thêm “niềm cay đắng” để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần” và ông đã than thở “mình còn ai đâu để vui ? khi trót sa vũng lầy nhân thế ”?

Bài hát "Thói Ðời" đã gây xúc động cho hàng triệu con tim cùng chung số phận nghiệt ngã của cuộc đời. Với riêng bản thân Trúc Phương thì “Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật chính xác cho quãng đời còn lại của ông suốt gần 25 năm sau đó (1971-1995) nhứt là sau cuộc “đổi đời” bi thảm.


Thực vậy, sau năm 1975 thì tất cả những bài hát của Trúc Phương đều bị cấm trình diễn trong nước. Không có nghề nghiệp gì trong tay, ông làm đủ mọi việc để sinh sống. Năm 1979 ông được bạn bè giúp đở vượt biên, nhưng phần số của ông lại kém may mắn, nên không thoát được khỏi Việt Nam mà lại bị tù tội một thời gian. Ra khỏi tù với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ vả bạn bè, mỗi nơi một thời gian ngắn. Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn với thân nhân, Trúc Phương đã trả lời “Má của tôi thì già yếu đang ở dưới quê Cầu Ngang (Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc, không đủ ăn … nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa .”

Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa cũ một thời gian, Trúc Phương lại tìm đường về Sài Gòn. Ban ngày ông làm thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang khắp nơi. Buổi tối ông đón xe về xa cảng miền Tây để thuê chiếc chiếu $1 ngả lưng qua đêm, như ông đã trả lời phỏng vấn trong đoạn video clip hiếm hoi mà vô cùng quý giá vào năm 1995. Có thể nói là trong suốt hai chục năm (1975-1995) không biết bao nhiêu ca sĩ, trung tâm ca nhạc đã thu thanh, thu hình những bài hát của Trúc Phương ở hải ngoại. Nhưng chắc chắn là ít có người đã biết tin ông âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn vào ngày 18 tháng 9 năm 1995. Ông được những người quen, lối xóm chôn cất ở nghĩa trang Lái Thiêu.


Cố nhạc sĩ Trúc Phương đã để lại cho đời hơn 65 ca khúc viết trước năm 1975 và một số tác phẩm khác viết tặng bạn bè chưa được phổ biến sau này. Nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ những bài hát của Trúc Phương như Ai Cho Tôi Tình Yêu, Chuyện Chúng Mình, Hai Lối Mộng, Chiều Cuối Tuần, Con Đường Mang Tên Em, Tàu Đêm Năm Cũ, Bóng Nhỏ Đường Chiều, Hình Bóng Cũ …

Được tin nhạc sĩ Trúc Phương lìa đời, ca sĩ Thanh Thúy đang ở California, Hoa Kỳ, đã viết trong số báo Thế Giới Nghệ Sĩ vào tháng 2 năm 1996 như sau:
Anh Trúc Phương, một ngôi sao sáng của vòm trời âm nhạc Việt Nam vừa vụt tắt. Tin anh qua đời đến với tôi quá đột ngột. Tôi đã bàng hoàng xúc động với sự mất mát lớn lao này. Anh và tôi không hẹn nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho hết kiếp tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 1960, tên tuổi anh và tôi gắn liền nhau : “Trúc Phương và tiếng hát Thanh Thúy”.


Đường đời đã chia chúng tôi ra hai ngã, hai hướng đi. Tôi đã giã từ sân khấu, giã từ lời ca tiếng nhạc, theo chồng đi đến những phương trời xa. Còn anh vào quân ngũ và tiếp tục hăng say sáng tác, hầu hết những nhạc phẩm đều nói về cuộc đời người lính phong sương, xa nhà, xa thành phố, xa người em nhỏ hậu phương …Rồi lại thêm một lần cuộc đời lại chia đôi chúng tôi đôi ngã: Anh kẹt lại quê nhà, tôi sống đời lưu vong …” (Thanh Thúy).

Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1996):
Có một thi sĩ trong nước đã miêu tả chân dung nhạc sĩ Văn Cao bằng bốn câu thơ như sau:


"Thiên Thai từ giã về dương thế
Suối Mơ ngày ấy Buồn Tàn Thu
Sân đình ngất nghểu ngôi Tiên Chỉ
Uống rượu say rồi hát Quốc Ca !"

Trong bài thơ này có bốn bản nhạc tiêu biểu nhất của nhạc sĩ Văn Cao là Thiên Thai, Suối Mơ, Buồn Tàn Thu và bài Quốc Ca của nước CHXHCN Việt Nam. Ngoài ra ông còn được giới văn nghệ sĩ miền Bắc đặt cho biệt danh “Cụ Tiên Chỉ”. (Thời phong kiến trước năm 1945, cụ Tiên Chỉ là chức vụ to nhất ở trong làng. Mỗi khi có hội họp, tế lễ, cụ Tiên Chỉ luôn luôn được mời ngồi chiếu trên). Tác giả của bài Tiến Quân Ca (Quốc Ca) có rất nhiều tài như hội họa, âm nhạc, làm thơ, viết văn phê bình … Trong vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm”, nhạc sĩ Văn Cao bị xếp vào thành phần lãnh đạo. Biệt danh “Cụ Tiên Chỉ” là do giới văn nghệ sĩ đặt cho ông để chỉ tài năng đa dạng của ông, nhưng cái biệt danh này lại khiến cho chính quyền cộng sản gán cho ông, kết tội ông là người cầm đầu nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” chỉ trích chế độ đương thời.

Ông bị treo bút, không được sáng tác, về làm người minh họa cho báo Văn Nghệ suốt hơn 30 năm, đến khi già ốm và chết vào năm 1996. Đã hàng chục năm dài, nhạc sĩ Văn Cao buồn cho thế sự, buồn cho tình đời, nên ông đành mượn chén rượu giải sầu. Tài uống “rượu suông” (uống rượu mà không có thức nhắm) của ông Văn Cao thật kinh người. Ông có thể ngồi uống hàng lít rượu mà vẫn không say, vẫn tỉnh táo như thường.

Trong chương trình Asia 55, chúng ta được xem một đoạn video clip của nhạc sĩ Văn Cao trả lời phỏng vấn năm 1995 trước khi ông mất, về những bài hát thời tiền chiến của ông với thật nhiều kỷ niệm luyến tiếc. Thần trí ông thật minh mẫn và ông đã kể lại rành mạch từng cảm xúc của ông khi sáng tác những bài hát này cách đây hơn 60 năm.

Có một giai thoại do chính người con trai thứ ba của ông là kỹ sư xây dựng Nguyễn Nghiêm Bằng (sanh năm 1951) kể lại cho một người bạn và được giới văn nghệ sĩ miền Bắc truyền tụng sau này là: Vào lúc Văn Cao bị “đánh tả tơi” sau vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” thì bà Nghiêm Thúy Băng - vợ của ông – đã có lần mắng vào mặt mấy “thằng bạn chí cốt” của chồng, giờ đang nắm chức cao quyền trọng như sau:
“Các ông ghen tài rồi thù chồng tôi ..các ông kỷ luật anh ấy … nhưng chồng tôi vẫn là người được nhân dân tôn kính …Khi bài “Tiến Quân Ca” của anh ấy cất lên, ngay cả các ông vẫn phải gục đầu xuống !”. (trích từ cuốn “Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn” của Lý Hồng Xuân, Văn Nghệ, California, USA, 2000)


(Hình bà Văn Cao và nhạc sĩ Văn Cao ở nhà riêng, 1994)

Trước kia, giới văn nghệ sĩ ở Hà Nội vẫn thường than thở với nhau là nhạc sĩ Văn Cao là tác giả duy nhất của bài Quốc Ca (so với những tác giả Quốc Ca khác trên thế giới) vẫn còn sống sót được trong suốt 50 năm (1945-1995), nhưng lại là người bị chế độ trù dập và phải cư trú trong một căn nhà rất tồi tàn, nghèo khổ, xoàng xĩnh nhất ở thủ đô Hà Nội.(Nghĩa la không được chính quyền ưu đãi gì cả so với công lao của ông).

Khoảng năm 1993, bỗng dưng giới sinh hoạt văn nghệ Hà Nội được tin sẽ có một buổi lễ kỷ niệm “Nửa Thế Kỷ Âm Nhạc VN” nhằm vinh danh các nhạc sĩ đã đóng góp vào kho tàng âm nhạc VN. Buổi lễ được thực hiện rất trang trọng tại nhà hát lớn Hà Nội với nhiều viên chức chính quyền và quan khách ngoại quốc tham dự. Đến tiết mục thứ 13, ban tổ chức cho hát bài “Làng Tôi” và mời tác giả là nhạc sĩ Văn Cao lên sân khấu để ban tổ chức trao tặng bó hoa danh dự. Khán giả nồng nhiệt vỗ tay rào rào hàng chục phút. Nhưng mọi người chờ hoài mà không thấy nhạc sĩ Văn Cao đâu cả . Có người nói là :” Ông Văn Cao đòi thay tiết mục, ông đề nghị hát bài “Thiên Thai” không được, nên buồn bực không tới dự, vì ban tổ chức đã tự ý chọn bài “Làng Tôi” (1947) của ông sắp xếp vào chương trình.(trích “Vài Câu Chuyện Làng Văn Hà Nội” ký sự văn học của Lý Kiệt Luận, California, USA, 1994)

Nhạc sĩ Đỗ Lễ (1941-1997):
Trường hợp mất đi của nhạc sĩ Đỗ Lễ cũng khá thương tâm. Ông đã cống hiến hầu hết cuộc đời tài hoa của mình cho âm nhạc, cho tình yêu và đã để lại cho đời những bài hát thật tuyệt vời về những cuộc tình trái ngang, phụ phàng, cay đắng. Nhưng cuối cùng ông lại tự kết liễu đời mình bằng một liều thuốc độc trong một căn phòng khách sạn khi từ Mỹ trở về thăm quê hương (tháng 3 năm 1997)


Tên thật của ông là Đỗ Hữu Lễ, sinh ngày 12-10-1941 tại Hà Nội. Học tiểu học trường Hàng Vôi, trung học Chu Văn An (1952), Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn (1953), Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định (1954), Đại Học Khoa Học Sài Gòn (1959), Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1963). Tự học nhạc năm 1951 và bắt đầu sáng tác từ năm 1956 khi vừa tròn 15 tuổi. Tuyệt vọng vì yêu một ca sĩ (Lệ Thanh) nhưng không được đáp lại và khi nàng lên xe hoa thì ông sáng tác bài Sang Ngang rất nổi tiếng sau này và đã làm cho biết bao nữ sinh rơi nưóc mắt.


“Thôi nín đi em
Lệ đẫm vai rồi
Buồn thương nhớ ai…
Mai bước sang ngang
Lòng thêm nát tan
Tình đã dở dang…
Thôi khóc làm gì
Đã lỡ duyên thề
Thương nhau làm chi…
Nỗi buồn ai hay
Khi mình chia tay
Xa cách nhau rồi …”

Lúc đó có nữ ca sĩ (Y. X ) đã trình bày lần đầu tiên bài hát này ở các phòng trà và sau đó đã trở thành bà Đỗ Lễ. Tuy nhiên cuộc tình của họ chỉ kéo dài được 6 năm và tan vỡ sau khi họ có với nhau ba mặt con. (Sau này người vợ của nhạc sĩ đã ôm cầm sang thuyền khác và đã định cư ở Mỹ).
Trước đó nhạc sĩ Đỗ Lễ có phụ trách một chương trình ca nhạc trên đài Truyền Hình ở Sài Gòn hàng tuần mang tên là “Thời Trang Nhạc Tuyển”. Chương trình này quy tụ các ca sĩ như Hoàng Oanh, Khánh Ly, Thanh Lan, Phương Hồng Hạnh, Ngọc Minh, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hương Lan, Caroll Kim, Hoài Xuân, Xuân Đào, tam ca Sao Băng, 3 Con Mèo, 3 Trái Táo …Đặc biệt là chính Đỗ Lễ lại là người hoạ sĩ vẽ trang trí cho sân khấu những show truyền hình của ông, nên ông được nhiều người gọi là họa sĩ “Sang Ngang” như tên một bài hát của ông.
Sau khi chia tay với người vợ đầu, thời gian cô đơn này nhạc sĩ Đỗ Lễ quá đau thương, nên ông đã sáng tác nhiều bản nhạc nghe rất não lòng như Tình Phụ. Chính bản nhạc này đã được hãng phim của Thẩm Thúy Hằng chọn làm nhạc chủ đề cho phim “Nàng” với tiếng hát của Carol Kim. Trong chương trình Asia 55, bài hát này đã được Nguyên Khang và Y Phương trình bày rất điêu luyện qua từng lời ca than oán và nét mặt ưu sầu của họ đã đã diễn tả rất chính xác tâm trạng đau buồn của nhạc sĩ và hàng triệu người khác có cùng chung một tâm sự suốt mấy chục năm qua.Sau năm 1975, nhạc sĩ Đỗ Lễ sinh sống bằng cách mở lớp dạy nhạc tại Sài Gòn. Đến năm 1994 nhạc sĩ Đỗ Lễ được thân nhân bão lãnh qua Mỹ định cư tại thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania. Nhưng đời sống nơi xứ lạ này không làm ông yên tâm hay thoải mái như bao nhiêu người khác, mà ông lại một mình quay về chốn cũ, với nhiều kỷ niệm xưa để tự kết liễu đời mình ở đó trong cô đơn, thất vọng não nề như những lời tiên tri trong các bài hát của ông ?

Nhạc sĩ Thăng Long (1937- ):
Nếu không có những người phóng viên của Trung Tâm Asia và đài truyền hình SBTN về tận Việt Nam tìm kiếm và quay phim, phỏng vấn nhạc sĩ Thăng Long thì ít ai còn biết đến tung tích của ông.


Tuy là một nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời và cùng lứa tuổi với những nhạc sĩ khác như Duy Khánh, Lam Phương, Thanh Sơn, Trúc Phương …nhưng hầu như sau này ít ai còn nhớ đến tên của nhạc sĩ Thăng Long. Có lẽ vì đời sống của ông khá bình dị và ông thích kiếp sống giang hồ như những bài hát của ông sáng tác cách đây hơn 40 năm như Kiếp Giang Hồ, Giã Từ Gác Trọ, Trở Về Gác Trọ ...
Cuộc đời của ông thật quá phong trần. Vì ngay sau khi chào đời vào năm 1936 ở tỉnh Hải Dương, miền Bắc thì ông đã mồ côi mẹ . Năm 15 tuổi thì chàng thanh niên tên Nguyễn Văn Thành lại mồ côi cha. Một mình lưu lạc vào Nam, ông phải lang thang kiếm sống bằng cây đàn với một nhạc sĩ mù hát dạo khắp đô thành. Vậy mà năm 1963 ông đã thành trưởng ban của một ban nhạc mang tên Hồ Gươm, chuyên trình diễn trên đài phát thanh Tiếng Nói Quân Đội ở Sài Gòn với nhiều ca sĩ tên tuổi đương thời. …


Nhìn tấm hình chụp của nhạc sĩ Thăng Long vào năm 1965 qua dáng dấp trẻ trung, nhưng đượm nét phong trần với túi hành lý quảy một bên vai và bên vai kia là cây đàn guitar rất nghệ sĩ. Nhưng không ngờ, cho đến bây giờ trong đoạn phim video clip, ông vẫn còn giữ lại cây đàn yêu quý như một tài sản độc nhất theo ông suốt hơn 40 năm nay. Không được may mắn như những nhạc sĩ khác cùng thời với ông (như Thanh Sơn, Nguyễn Ánh 9) có được một việc làm nơi chốn đô thành, nhạc sĩ Thăng Long phải về ẩn cư nơi vùng quê nghèo nàn của miền Tây là một làng nhỏ (Phú Lộc) của tỉnh Sóc Trăng. Thấy ông phải vất vả với số tuổi 70 để dạy từng bài học âm nhạc cho những thanh niên trong xóm, mà cảm xúc dâng trào, thương nhạc sĩ lão thành này quá đổi. Tuy vậy, khi được hỏi về bài hát “Quen Nhau Trên Đường Về” thì cặp mắt của nhạc sĩ Thăng Long sáng hẳn lên. Ông say mê nói về những cảm xúc của hơn 40 năm trước nơi bùng binh chợ Sài Gòn, với những âm thanh và hình ảnh của thời quá khứ xa xăm đã tạo nên nguồn cảm hứng để cho ông viết ra bài hát rất nổi tiếng này .

Thật ngạc nhiên khi thấy tài năng độc đáo và cảm xúc đầy nghệ sĩ tính của người nhạc sĩ này, vì khi ngồi nghỉ chân nơi công viên, ông chỉ thoáng nghe một điệu kèn đám ma ò e như “ tàng tang tang táng tạng táng tang tàng tang …” mà cái làn hơi (air) đó, cộng với cảnh hẹn hò tâm sự bên nhau của đôi trai gái xa lạ, đã khiến ông tạo nên giai điệu mượt mà quyến rũ, giàu tình cảm quê hương với những lời ca như:
“Chiều này có phải anh ra miền Trung ..
Về thăm quê mẹ cho em về cùng
Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu
Về đến sông Hương núi Ngự
Để nhìn trăng soi cuối thôn …"
Ngoài ra khi thấy chàng quân nhân trẻ tuổi đang bịn rịn giã từ cô gái để đi về hướng nhà ga xe lửa chạy ra Trung phần, ông đã gởi gấm những lý tưởng và chí hướng thật cao đẹp cho chàng thanh niên trẻ ra đi phục vụ quê hương, giữ yên bờ cõi (đặt nợ nước trước tình nhà), với những lời ca như:

"Thương anh không phải vì “tình yêu” ..
không phải vì “sang giàu”
Mà vì “cùng chung chí hướng” …
Thương anh, thân dãi dầu nắng mưa
Băng rừng sâu núi đồi, mang về khúc hát “khải hoàn” …”

Ôi những lời hát ngày xưa, sao nghe thật đậm đà và có quá nhiều ý nghĩa chân thành, tha thiết với giai điệu nhẹ nhàng êm ái mà cũng rất trữ tình, lãng mạn. Tất cả như quyện vào nhau giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu mến quê hương đất nước.

Không biết nơi quê nhà nhạc sĩ Thăng Long có dịp xem được chương trình Asia 55 trong DVD hay không ? Nhưng ở khắp mọi nơi, có lẽ đã có nhiều khán thính giả rưng rưng nước mắt cảm động khi lần đầu tiên được thấy và nghe tâm sự của ông và nhất là được thưởng thức giọng hát “vang tiếng một thời” của danh ca Minh Hiếu.
Đây là một tiết mục rất đặc sắc của chương trình Asia 55, được nhiều người chú ý và khen ngợi. Nhứt là việckết hợp bài hát đã một thời gắn liền với người “Hạ Sĩ Nhất Danh Dự” trong quân lực VNCH ngày nào với dàn nhạc đặc sắc của Trung Tâm Asia bên cạnh chiếc xe xích lô quen thuộc của đô thành Sài Gòn xa xưa.
Giờ đây nơi quê nhà hẻo lánh, sống chuỗi ngày còn lại bên cây đàn mang theo bên mình suốt hơn 40 năm qua, không biết người “nhạc sĩ giang hồ” Thăng Long có biết được những bài hát của mình vẫn được trân trọng đón nhận và ghi khắc trong tâm tư của nhiều thế hệ người Việt lưu vong khắp nơi.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý ( 1925- ):

Một trong những nhạc sĩ được phỏng vấn ở chương trình Asia 55 này đã để lại thật nhiều ấn tượng và nỗi bàng hoàng xúc động cho khán giả là nhạc sĩ lão thành Nguyễn Văn Tý. Cuộc đời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý khá thăng trầm và nhiều lận đận từ những ngày còn trẻ cho đến lúc tuổi già xế bóng như hiện giờ . Trong đoạn video clip phỏng vấn ông vào năm 1995, chúng ta thấy nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý thật khoẻ mạnh, yêu đời và rất vui vẻ tâm sự về bài hát Dư Âm của ông sáng tác cách đây gần 60 năm với những kỷ niệm và những cảm xúc như mới vừa xãy ra và nhắc lại những lời ca êm ái mượt mà trong bài hát. Nhưng trong đoạn phim sau đó, khi gặp lại ông vào tháng 5 năm nay (2007), nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã tỏ ra thất vọng chán chường, và phát biểu những lời không ai có thể ngờ được như:


Tôi bây giờ phải nói thật với các bạn là tôi sống khổ, sống rất khổ, thiếu thốn mọi thứ …mà tôi trách cái xã hội … Tôi chỉ sống bằng tình thưong cảm của anh em bạn bè … Bạn bè đến thăm tôi, thấy tôi khổ ...thì có bao nhiêu tiền móc ra cho tôi …Tôi quý những đồng tiền đó lắm …


Có điều tôi muốn nói là … tôi nhận thấy không có chế độ nào bẩn thỉu như cái chế độ này. Nó coi người ta như rơm rác, nó không coi con người ra gì cả ..rơm rác…bẩn thỉu ….”

Nghe mà lạnh mình. Tại sao vậy ? Tại vì nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là một nhạc sĩ đã có nhiều bài hát được trình diễn trong vài chục năm dài, kể từ tiền chiến và sau này như “Tiễn Anh Lên Đường, Người Đi Xây Hồ Kẻ Gỗ” …và trong quá khứ ông cũng đã được chế độ cộng sản ưu đãi so với nhiều văn nghệ sĩ khác. Năm 2000 ông được trao tặng giải thưởng HCM về Văn Học cho các tác phẩm: “Mẹ Yêu Con, Bài Ca 5 Tấn, Tấm Áo Chiến Sỹ Mẹ Vá Năm Xưa, Một Khúc Tâm Tình Của Người Hà Tĩnh, Dáng Đứng Bến Tre …”. Năm 2005 và 2006 ông đã được tôn vinh trong những “Đêm Vinh Danh Tác Phẩm Nguyễn Văn Tý”. Nhưng bây giờ ông lại trở nên bất mãn và không sợ hãi gì mà nói thật lòng mình cho những phóng viên từ nước ngoài trở về gặp ông tại nhà riêng của ông ở Sài Gòn.


Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sinh ngày 5 tháng 3 năm 1925 tại thành phố Vinh, Nghệ An. Thuở bé ông học ở trường Quốc Học Vinh và được một giáo viên người Pháp dạy cho những bài hát của Tino Rossi đang thịnh hành. Sau đó ông học nhạc lý với một linh mục người Tây Ban Nha và học đàn với một nhạc sĩ người Trung Hoa . Năm 1944 ông đi hát cho một phòng trà ở Vinh để kiếm sống. Năm sau, ông tham gia kháng chiến và hoạt động văn nghệ cho tỉnh Nghệ An trong lãnh vực nhạc và kịch. Năm 1948 ông công tác ở đoàn văn hoá tiền tuyến thuộc Quân Huấn Cục. Từ năm 1950, ông nhận nhiệm vụ đi xây dựng đoàn văn công của Sư đoàn 304 và làm trưởng đoàn.

Cuối năm 1950, khi về chơi ngang nhà người bạn ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, ông đã viết bài Dư Âm để nói về cô em gái của người bạn này. Như chính lời kể của ông về lai lịch bài hát “Dư Âm”:

“-Đây là một hình ảnh hoàn toàn có thực. Người con gái mà tôi yêu đó, ít hơn tôi gần 10 tuổi. Cho nên lúc đó gia đình cô không cho phép tiến tới hôn nhân. Người con gái đó đã phản ứng khi lần cuối cùng gặp nhau là nàng đợi đêm đến lúc trăng lên, mới ra sau nhà gội đầu, rồi ôm đàn ra hát. Đó là một cơn điên trong người nàng, như một phản ứng quyết liệt chống lại gia đình phong kiến. Và gửi cho tôi một lời thông điệp. Cho nên tôi ghi nhận hình ảnh đó một cách trọn vẹn. Đó cũng là hình ảnh tôi đã ấp ủ bấy nhiêu năm, và tôi vẫn coi đó như một nguồn cảm hứng để viết lên những lời ca trong bài Dư Âm.”

Chính bài hát “Dư Âm” này đã khiến cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý bị đơn vị đưa ra kiểm điểm vì đã sáng tác một bài hát quá ủy mị, không hợp với thời toàn quốc đang kháng chiến lúc đó. Hầu như bài hát Dư Âm này bị cấm trình diễn ở miền Bắc trong nhiều năm dài và chỉ được phổ biến rộng rãi ở miền Nam tự do sau này.

Năm 1951, ông giải ngũ và xin về làm việc ở Chi hội Văn nghệ Liên khu IV. Năm 1952, ông quen biết và sau đó lập gia đình với cô Bạch Lệ (là em gái của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, tác giả bài “Đêm Đông”). Cuối năm 1957, ông cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao được chỉ định thành lập Hội Nhạc Sĩ Việt Nam. Sau đó khi đang là ủy viên chấp hành khóa đầu tiên của hội thì xãy ra vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm khiến cho những người bạn của ông như Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần phải bị kỹ luật, bị tù … Nên theo lời khuyên của Lưu Hữu Phước, ông tránh xa khỏi Hội Nhạc Sĩ này và xin đi nghiên cứu dân ca ở miền quê. Đầu năm 1961, ông được biệt phái về Hưng yên, thời gian này nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã viết một số ca khúc như Chim Hót Trên Đồng Đay, Dòng Nước Quê Hương (1963), Tiễn Anh Lên Đường (1964).

Năm 1975, ông chuyển về Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc, thuộc Bộ Văn Hóa, cơ sở II tại thành phố HCM. Trong khoảng thập niên 1990 ông vẫn sáng tác nhiều, khoảng hơn 20 bài, nhưng không có bài nào nổi tiếng.
Vào năm 2004, lúc được 79 tuổi, ông bị tắc ngẽn mạch máu não 2 lần và bị liệt hai lần, nhưng dần dần hồi phục. Vì vậy, chúng ta mới nghe được những lời phát biểu và nhận xét thật xác đáng của ông về chế độ CS hiện nay ở trong nước. Với số tuổi đời hơn 82 nhưng thần trí của ông vẫn còn rất sáng suốt, dù nhạc sĩ lão thành phải than là “giờ đang sống rất khổ” như mọi người đã thấy trong Asia 55. (Chắc chắn là đoạn phim phỏng vấn này ít ai ở trong nước có thể xem được?)

Trên đây là sơ lược về những mảnh đời có thể nói là khá bất hạnh của vài nhạc sĩ đã được phỏng vấn trong chương trình Asia 55. Bất hạnh vì họ đã sớm lìa trần hay vẫn còn đang sống cuộc đời cơ cực nơi quê nhà trong quên lãng của biết bao nhiêu người đã và đang thưởng thức những bài ca của họ. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đang ngậm ngùi chua xót cho những nhạc sĩ kém may mắn này và băn khoăn tự hỏi mình phải làm gì để tỏ lòng tri ân cho những cống hiến tuyệt vời của họ?

Đã có nhiều ý kiến nêu ra trên các diễn đàn sau khi xem được những video clips phỏng vấn các nhạc sĩ ở chương trình Asia 55. Đó là những suy tư, ray rức của nhiều khán giả và đã có những lời đề nghị cho một dự án gây quỹ để cứu giúp cho những nhạc sĩ và thân nhân của họ đang sống nốt những ngày vất vả nơi quê nhà. Một việc làm rất cần thiết trong lúc này!

(29-8-2007)

Saturday, September 12, 2009

*Mối Thâm Tình Tri Kỷ Giữa Trúc Hồ & Trầm T.Thiêng


Viết về ASIA 54: Trầm Tử Thiêng-Trúc Hồ, mối thâm tình tri kỷ.
Vào ngày Thứ Bảy 7 tháng Tư năm nay, trung tâm ca nhạc Asia sẽ thực hiện một chương trình đại nhạc hội trực tiếp thu hình cho DVD Asia số 54 với chủ đề “Trầm Tử Thiêng-Trúc Hồ: Bước Chân Việt Nam” tại đại hý viện lớn nhất miền đông nam Hoa Kỳ là Atlanta Civic Center ở tiểu bang Georgia. Đây là một chủ đề đã được nhiều khán thính giả khắp nơi mong đợi từ lâu, nhứt là kể từ khi nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng lìa đời vào năm 2000. Những người yêu nhạc vẫn mong muốn được nhìn lại cuộc đời và tác phẩm của một tên tuổi lớn trong nền âm nhạc Việt Nam. Với sự nghiệp sáng tác của hơn 250 ca khúc trong gần 50 năm viết nhạc và phục vụ cho đồng bào, cho quê hương Việt Nam, cho cộng đồng người Việt hải ngoại, cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng xứng đáng được vinh danh và tưởng niệm trong một chương trình của Asia.

Nhưng nếu chỉ thực hiện một chương trình hoàn toàn dành riêng cho cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng mà thôi thì vẫn còn thiếu sót. Vì gần mười năm cuối cuộc đời của người nhạc sĩ tài danh này, đã có một sự liên hệ gắn bó rất mật thiết với một nhạc sĩ trẻ khác là Trúc Hồ. Tình bạn của hai nhạc sĩ ở hai thế hệ khác nhau đã trở nên bền chặt thành một thứ tình tri kỷ, cùng chung chí hướng. Họ đã mở rộng phạm vi sáng tác, trình diễn ca nhạc thành những hoạt động xã hội, giúp đỡ cộng đồng người Việt khắp nơi. Thành ra Trung Tâm Asia đã có sáng kiến rất độc đáo là thực hiện chương trình Asia 54 với những sáng tác tiêu biểu của hai nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng-Trúc Hồ.

Còn nhớ trong những chương trình ca nhạc của Trung Tâm Asia, khán giả hay để ý đến tiết mục mở màn và kết thúc của chương trình. Đó là những tiết mục được dàn dựng rất công phu theo từng chủ đề. Đặc biệt là những nhạc phẩm dùng để “closing” cho chương trình video Asia do hai nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng và Trúc Hồ hợp soạn đã được chú ý và ưa thích rất nhiều. Có lẽ những hoạt cảnh sống động với sự góp mặt của toàn thể nghệ sĩ trong chương trình là những màn được xem đi xem lại nhiều nhất khi khán giả ở nhà thưởng thức DVD của Trung Tâm Asia. Những bài hát này đã tạo nên một nét cá biệt trong việc hợp soạn của Trầm Tử Thiêng-Trúc Hồ, mà cho đến bây giờ khó có thể tìm thấy ở những sản phẩm DVD của các trung tâm khác.

Các ca khúc hợp soạn tiêu biểu của TTT & TH:

Khi được hỏi về sự hợp tác với Trúc Hồ trong việc sáng tác, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã trả lời nhà báo Trường Kỳ qua điện thoại vào ngày 18-08-1997 và được đăng lại ở Tuyển Tập Nghệ Sĩ số 3 do Trường Kỳ xuất bản ở Canada, năm 1997 như sau:

“Trước hết phải nhắc đến bài “Cơn Mưa Hạ”, bài nhạc chủ đề của cuốn phim cùng tựa, tôi đã viết lời từ giai điệu của Trúc Hồ. Rồi sự kiện các trại tỵ nạn phải đóng cửa từ năm 1989 và đồng bào bị cưỡng bách hồi hương. Vào năm 1991, Trúc Hồ đưa cho tôi một giai điệu cùng những lời tâm sự và muốn tôi viết lời chung cho một nhạc phẩm về các trẻ em mồ côi tỵ nạn. Vì lớn lên ở đây nên Trúc Hồ tự nhận là mình diễn tả không hết ý của mình qua lời ca. Tôi đồng ý viết lời thành nhạc phẩm “Bên Em Đang Có Ta”. Nhạc phẩm này đến năm 1993 mới được phổ biến mạnh …

Qua đến năm 1995 là thời điểm đánh dấu 20 năm tỵ nạn, Trúc Hồ đưa cho tôi một giai điệu để viết về đề tài này và gợi ý cho tôi là muốn cám ơn thế giới đã cưu mang những người tỵ nạn, từ đó tôi đã viết lời cho nhạc phẩm “Bước Chân Việt Nam” … Sau đó tôi viết bài “Một Ngày Việt Nam” nói về thân phận lưu vong và về đất nước Việt Nam triền miên đau thương và chia ly, cho đến bây giờ vẫn chưa thấy bóng thanh bình, ngày hạnh phúc rõ ràng mặc dù những người cầm quyền vẫn luôn luôn nói cách mạng, tỏ ra đủ điều, nhưng mà cái đau thương vẫn dồn lên đầu của những người dân…

Một bài nữa vẫn là nhạc Trúc Hồ và tôi viết lời là “Việt Nam Về Trong Nỗi Nhớ” …Qua đến năm 1996 có một biến chuyển lớn ở Phi Luật Tân là chính phủ và Hội Đồng Giám Mục Phi cho phép những người tỵ nạn được ở lại với sự thành lập một “làng Việt Nam”. Cảm hứng từ sự kiện này, tôi đã viết bài “Có Tin Vui Giữa Giờ Tuyệt Vọng” …

Ngoài việc soạn nhạc chung với nhau, hai người bạn vong niên tri kỷ này đã hợp tác thực hiện nhiều dự án giúp đở cho các trẻ em mồ côi ở trại tỵ nạn, quyên góp gây quỹ từ thiện, và nhiều lần cùng với các nghệ sĩ khác viếng thăm các trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á, biểu tình tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam…không sao kể xiết.


Nổi bật hơn hết trong những bài hát hợp soạn của hai nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng- Trúc Hồ là “Bên Em Đang Có Ta” với những lời ca thật giản dị nhưng giai điệu thì vô cùng cảm động. Đặc biệt là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần duy nhất ở hải ngoại có sự kết hợp lại của 80 nghệ sĩ cùng hợp ca và thâu thanh bài hát này cho album nhạc cùng tên do Việt Production sản xuất (1994) với sự góp sức của các bạn trẻ trong nhóm Project Ngọc, để gây quỹ giúp cho các trẻ em mồ côi ở các trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á. Có thể nói đây là một CD “độc nhất vô nhị” và mang thật nhiều ý nghĩa, cũng như đánh dấu sự đoàn kết của hơn 80 nghệ sĩ mà trong đó có nhiều người đã vĩnh viễn ra đi hoặc rẽ sang hướng khác. Các nghệ sĩ đó là: Châu Đình An, Kim Anh, Ngọc Anh, Nguyệt Ánh, Tuấn Anh, Trần Quốc Bảo, Trung Hành, Quang Bình, Mạnh Chu, Anh Dũng, Việt Dzũng, Minh Hà, Nhật Hạ, Thanh Hà, Trúc Hồ, Ngọc Huệ, Lê Tín Hương, Thúy Hương, Julie, Vũ Khanh, Duy Khánh, Thúy Kiều, Hương Lan, Ngọc Lan, Trang Thanh Lan, Giao Linh, Phương Loan, Nam Lộc, Phạm Long, Chung Tử Lưu, Khánh Ly, Lyn, Như Mai, Thanh Mai, Quang Mỹ, Giáng Ngọc, Tuấn Ngọc, Nguyễn Tất Nhiên, Minh Phúc, Trần Chí Phúc, Minh Phượng, Elvis Phương, Phương Hồng Quế, Hà Thúc Sinh, Quốc Sĩ, Anh Sơn, Trịnh Nam Sơn, Thảo Sương, Chí Tài, Thái Tài, Hoàng Tâm, Công Thành, Ngọc Đan Thanh, Như Thảo, Thái Thảo, Việt Thảo, Chí Thiện, Trầm Tử Thiêng, Hương Thơ, Lệ Thu, Thanh Thúy, Thanh Thủy, Vô Thường, Ngọc Trọng, Bảo Trung, Quốc Tuấn, Quốc Tuệ, Duy Tường, Sơn Tuyền, Thúy Vân, Mai Vy, Thúy Vy, Minh Xuân…Đã cùng hợp ca với nhau:



Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa dưới mặt trời
Cười hồn nhiên tung tăng hát vang, mừng nắng tươi
Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa dưới mặt trời
Rời lòng nôi trong đêm gió mưa, ra biển khơi …


Một ca khúc rất nổi tiếng khác được hợp soạn giữa Trầm Tử Thiêng và Trúc Hồ vào ngày 25 tháng 2 năm 1996 là “Một Ngày Việt Nam”. Bài hát này đã được rất nhiều chương trình văn nghệ khắp nơi hợp ca, trình diễn hoạt cảnh. Riêng ban Việt Ngữ của hệ thống đài phát thanh sắc tộc đặc biệt SBS phát thanh trên toàn nước Úc đã dùng bài hát này làm nhạc chủ đề hàng tuần cho chương trình “Người Việt Khắp Nơi” từ nhiều năm nay với sự cộng tác của Kiều Mỹ Duyên, Đỗ Thông Minh ... Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã viết những lời hát thật cảm động như:


Những ước mơ của hai người nhạc sĩ vong niên này thật giản dị là mong cho người dân ở trong nước sớm hết cảnh lầm than cơ cực, nên đã sáng tác thêm ca khúc “Hẹn Nhau Năm 2000”. Nhưng vừa bước qua ngày thứ hai mươi lăm của thế kỷ 21, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã âm thầm và lặng lẽ ra đi. Ông đã giã từ tất cả bè bạn, những người yêu nhạc của ông để về bên kia thế giới vĩnh hằng, nơi chốn rất bình an, không hận thù ganh ghét.

Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã ra đi trong yên lặng, giản dị như chính đời sống thường ngày của ông. Biết bao nhiêu đề tài, cảm hứng vẫn còn ấp ủ trong tim khi ông cố gắng chống chọi với cơn bịnh ung thư vào những ngày cuối cùng. Trầm Tử Thiêng có cuộc sống rất khiêm tốn, bình dị và không thích những xa hoa phù phiếm bề ngoài; nhưng rất tận tụy hy sinh trong những công tác xã hội và luôn hiện diện trong những buổi họp mặt gây quỹ cho người tỵ nạn hay thương phế binh. Năm 1998, ông đã phát biểu trong buổi ra mắt video Asia 21 “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến” như sau:
“Tất cả chúng ta đều chịu ơn nhau … Biết cảm ơn và biết xin lỗi đúng lúc, Thế Giới này sẽ bình yên và tốt đẹp hơn…”.

Lời ca trong bản nhạc “Cám Ơn Anh” cũng đã nói lên tâm tính của ông:
“Cám ơn nôi và tiếng hát đầu đời
Cám ơn mưa và nắng gió quê tôi
Cám ơn cha đã cho con hạt bụi
Vo tròn trong bụng mẹ cút côi …”


Ngược dòng thời gian và không gian để hồi tưởng về những ngày tháng nơi quê nhà trong thời chinh chiến. Năm 1968, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng bổng dưng trở nên nổi tiếng khắp nước đã qua bài hát “Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy”. Bài hát đã kể lại lịch sử chiếc cầu Trường Tiền bắc qua sông Hương ở Huế từ lúc thanh bình cho khi bị cộng sản giựt mìn phá sập vào dịp Tết Mậu Thân với những câu trách móc rất nhẹ nhàng nhưng vô cùng thắm thía:

“Tình người về giữa đêm xuân chưa dứt cuộc vui
Giặc đã qua đây gây cảnh nổi trôi
Cầu thân ái đêm nay gãy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài …
Vì sao không thương mến nhau, còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu?..”


Một bài hát khác cũng tiêu biểu cho thời chiến tranh ở quê nhà là “Kinh Khổ”. Lời ca đã lạ mà giai điệu còn lạ lùng hơn. Những nhịp điệu trầm thống lạ lùng rất đau khổ như những lời cầu kinh xoáy vào tâm hồn người nghe như những lời tiên tri về thân phận Việt Nam. Đất nước gì mà con dân cứ lần lượt từng đoàn bỏ ra đi. Người đi thưa dần, người về đông hơn, mà không ai chịu ở lại. Sau cùng là còn lại những tha ma mộ địa.
"Mẹ ngồi nguyện cầu hằng bao đêm
Lời kinh vọng xa thật êm đềm
Mẹ cầu cho con , vượt qua ngày tròn
Mẹ cầu cho em, tuổi trời xanh còn nguyên đừng biến mất …"

Vào những ngày cuối cùng của cuộc đời, khi nằm trên giường bịnh, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng vẫn quyết liệt từ chối hảo ý của bằng hữu ông khi họ định tổ chức một đêm nhạc hội gây quỹ yễm trợ về tài chánh cho ông. Lý do cũng rất dễ hiểu là ông không muốn nhận những đóng góp của khán giả dành cho riêng ông, mà ông mong là những đồng tiền đó nên dành để cứu trợ cho nhiều người khác, nhất là các trẻ em mồ côi, thương phế binh ở quê nhà còn bất hạnh hơn ông rất nhiều. Không vợ con, không thân nhân chung quanh; nhưng đám tang của ông là một trong những đám tang long trọng của một nhạc sĩ, vì đã được hơn một ngàn người tham dự và tiễn đưa ở nghĩa trang vào sáng ngày 1-2-2000.

Từ ngày 29-1-2000 tại nhà quàn Peek Family, chung quanh quan tài của Trầm Tử Thiêng lúc nào cũng chật kín người, không còn chổ đứng. Nét mặt nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thật thanh thản như đang nằm ngủ, đeo kính trắng và trên túi áo có gài cây bút máy. Giới văn nghệ sĩ, ca nhạc sĩ, cựu quân nhân, các hội đoàn lần lượt đến nghiêng mình. Có một số người từ các tiểu bang khác về, khóc vật vã trước quan tài. Không biết trong số đó có ai từng là người yêu của ông không? Nhiều người bàng hoàng sửng sốt, vì rất ít người biết được chuyện tình cảm riêng tư của ông. Như trước kia ông có lần trả lời phỏng vấn là đã có nhiều cuộc tình đi qua đời ông và tạo cho ông nhiều cảm xúc để sáng tác nên những bản tình ca suốt 50 năm qua. Nghi lễ phủ quốc kỳ VNCH trên quan tài nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã được Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam Cali cử hành long trọng. Ông đã là một chiến sĩ đóng góp rất nhiều vào kho tàng âm nhạc Việt Nam cho đến những ngày cuối cùng khi sức khoẻ đã suy sụp. Kể từ sau nghi lễ nhập quan, dòng người vẫn cuồn cuộn đổ về nhà quàn Peek Family.


(Linh cữu nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng do nhạc sĩ Trúc Hồ dẫn đầu đang được di chuyển từ từ ra lễ đài. Hình của Hồn Việt)

Ba nhân vật chính của Ban Tổ Chức Tang Lễ TTT là Trúc Hồ, Lâm Tường Dũ và Du Miên càng lúc càng phờ phạc ra thêm. Ở bên ngoài cửa nhà quàn, có ghi hàng chữ lớn: “ Xin Phép Không Nhận Phúng Điếu” của ban tổ chức. Có người nói nhỏ với nhau, nếu mà nhận phúng điếu chắc chắn là sẽ có một số tiền lớn. Nhưng mà nhận tiền làm gì lúc này? Tên tuổi lẫy lừng của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã không mang lại đủ tiền bạc để trang trải cho một đời sống rất trong sạch, giản dị của ông. Từ nhiều năm trước, ông đã ngồi một mình nơi nhà trọ, để âm thầm sáng tác với những nốt nhạc nhảy múa xung quanh ông. Ông đã làm việc cho nhiều người khác, nhưng không bao giờ ông cho biết đang cần thứ gì cho bản thân ông.

Như vậy thì tất cả những phí tổn cho tang lễ này là do ai bỏ ra? Được biết, người đứng ra chịu chi phí tang lễ này là nhạc sĩ Trúc Hồ, người bạn vong niên, tri kỷ nhất của ông trong gần mười năm sinh hoạt chung với nhau.

*Niên biểu cuộc đời Trầm Tử Thiêng: (1937-2000)
-1937: Trầm Tử Thiêng chào đời ngày 1-10 (tên thật là Nguyễn Văn Lợi), tại Đại Lộc, Quảng Nam.
-1943-1949: Học tiểu học ở trường làng. Bắt đầu ca hát ở thôn quê lúc 10 tuổi trong thời kháng Pháp.
-1950-1957: Vào miền Nam học Trung Học và tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm.
-1954-1955: Làm thơ viết văn với bút hiệu Tô Lãm, Đức Lợi.
-1955-1957: Tham gia ban văn nghệ phong trào Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ. Sinh hoạt trong các ban nhạc ở Sài Gòn, hát nhạc hài hước do ông sáng tác (biệt hiệu Hữu Lợi) và của Trần Văn Trạch. Sáng tác nhiều bài tình ca nhưng chưa cho phổ biến.
-1958: Bắt đầu đi dạy học, tiếp tục hoạt động văn nghệ.
-1960: Bắt đầu cho phổ biến những ca khúc dưới tên Trầm Tử Thiêng qua loạt bài viết cho tình yêu được nhiều người chú ý "Tình Ca Dọc Đường" với những bài hát tuyệt vời như "Tưởng Niệm", "Hối Tiếc", "Mộng Sầu", "Người Mang Tên Cô Đơn", "Bài Hương Ca Vô Tận".. .
-1966: Lên đường nhập ngủ vào QLVNCH. Sáng tác nhiều ca khúc cho tân binh ở quân trường như “Giọt Mưa Trên Poncho”, “Quân Trường Vang Tiếng Gọi”, “Đêm Di Hành”…
-1967: Về phục vụ tại phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến chung với các nhạc sĩ Anh Việt Thu, Trương Hoàng Xuân, Đỗ Kim Bảng, Lam Phương và Duy Khánh. Trong thời gian này, ông sáng tác nhiều ca khúc ghi lại những mốc điểm quan trọng của cuộc chiến khốc liệt mà điển hình là bài "Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy" sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 và "Đưa Em Vào Hạ" giữa mùa hè đỏ lửa 1972. Trong một số ca khúc sáng tác cho Cục Chính Huấn QLVNCH, ông đã ký tên Anh Nam.
-1970, Được biệt phái về Trung Tâm Học Liệu thuộc Bộ Giáo Dục để phụ trách ban Phát Thanh Học Đường. Trong thời gian này, ông sáng tác rất nhiều bài hát cho thiếu nhi và đã cùng nhạc sĩ Nhật Ngân thực hiện tập nhạc và băng nhạc "Hãy Hát Lên Tuổi Thơ". Sáng tác “Tôn Nữ Còn Buồn” nói về trận bão lụt ở miền Trung. Tham gia Phong Trào Du Ca.
-Sau 30/4/1975, ông bị liệt kê trong danh sách "nhạc sĩ phản động" nên cuộc sống bất an từng ngày. Ông tìm đường vượt biên nhiều lần nhưng đều thất bại và bị bắt ở tù trên một năm tại Cà Mau. Trong thời gian ở lại quê hương, ông đã sáng tác nhiều ca khúc gửi ra hải ngoại như "Gửi Em Hành Lý", "Dứt Bão Bắt Đầu Nước Mắt", "Hành Ca Trên Nông Trường Oan Nghiệt".
-1985, ông vượt thoát tới đảo Galang, Nam Dương (Indonesia) và được ca sĩ Thanh Thúy bảo lãnh vào Mỹ. Sau đó ông định cư ở nam California luôn.
-1986-1990: Cộng tác với Trung Tâm Hollywood Night của Trần Thăng với những sáng tác cho nhiều chủ đề đặc biệt như “Một Đời Áo Mẹ Áo Cha”, Lưu Vong Khúc Của Người Việt Nam …”. Sáng tác “Đêm Nhớ Về Sài Gòn” (1987)
-1991: Hợp soạn với Trúc Hồ để sáng tác bài “Cơn Mưa Hạ” và nhiều ca khúc nổi tiếng khác sau này.
-1992-2000: Cộng tác mật thiết với Trung Tâm Asia trong việc sáng tác và cho phổ biến những bài hát như “Cám Ơn Anh”, “Tình Đầu Một Thời Áo Trắng”, “Bên Em Đang Có Ta ”(1993), “Có Tin Vui Giữa Giờ Tuyệt Vọng” (1996), “Hẹn Em Năm 2000”…Thời gian này ông tham gia rất nhiều hoạt động xã hội, quyên góp để giúp cho các trẻ em không thân nhân ở trại tỵ nạn, cùng các nghệ sĩ viếng thăm Làng Việt Nam ở bên Phi Luật Tân…
-1996-2000: Cố vấn cho ban chấp hành Hội Ký Giả VN Hải Ngoại (2 nhiệm kỳ)
-1999: Cùng các bạn sáng lập Thư Viện VN tại Little Saigon.
-2000 : Trầm Tử Thiêng qua đời vào ngày 25 tháng 1 tại bịnh viện Anaheim West Medical Center, California, Hoa Kỳ.


*Những giòng nhạc và giòng đời của Trúc Hồ:

Đã bảy năm trôi qua kể từ khi người bạn vong niên nằm xuống, nhạc sĩ Trúc Hồ vẫn đang tiếp bước cuộc hành trình mà anh đã từng đi chung với cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng. Đó là những sáng tác riêng của anh sau này như “Hành Trình Ba Mươi Năm” viết cho chủ đề video ca nhạc Asia vào năm 2005. Những lời ca và giai điệu đặc sắc này của Trúc Hồ cho thấy anh đã thành công trong việc sáng tác những bài hát mở màn và kết thúc dành để hợp ca ở các chương trình ca nhạc Asia. Mười lăm năm về trước, anh đã gặp khó khăn trong việc soạn lời ca với những ý tưởng và giai điệu mới mẻ của anh, nên anh đã hợp tác với nhạc sĩ, thi sĩ Trầm Tử Thiêng để cho ra đời những tuyệt phẩm. Giờ đây sáng tác một mình, anh vẫn tiếp tục viết những lời ca mang âm hưởng của Trầm Tử Thiêng như là “hành trình tiếp nối” liên tục không hề mệt mõi. Nhân sinh quan trong sáng và tình cảm dạt dào của Trúc Hồ dành cho quê hương dân tộc theo những “bước chân Việt Nam” của anh vẫn hiện diện nơi nhiều ca khúc vừa sáng tác trong những năm gần đây.

Nhìn lại gia tài sáng tác và những dự án của Trúc Hồ trong vòng 20 năm nay, thấy không biết bao nhiêu mà kể, vì có nhiều bài hát của anh vẫn chưa được phổ biến. Như nhận xét của nhà báo kỳ cựu Trường Kỳ trong một bài viết trước kia:

“Là một tên tuổi nổi bật trong số những nhạc sĩ sáng tác và soạn hoà âm người Việt ở hải ngoại đại diện cho thế hệ trẻ hấp thụ nền âm nhạc Âu Tây, nên những giai điệu và tiết điệu trong các bài hát của Trúc Hồ cũng có sắc thái trẻ trung, mới lạ phù hợp với sở thích của giới trẻ Việt Nam trưởng thành nơi hải ngoại nhưng vẫn còn tha thiết với quê hương. Tên thật là Trương Anh Hùng, sanh năm 1964 tại Sài Gòn, nhạc sĩ Trúc Hồ đã mang trong mình giòng máu nhạc sĩ di truyền từ người cha là nhạc sĩ Trúc Giang. Anh đã làm quen với âm nhạc từ khi còn rất nhỏ dưới sự chỉ dạy của phụ thân ở lớp dạy nhạc của ông. Sau đó anh học thêm nhạc với các nhạc sĩ nổi tiếng khác như Nghiêm Phú Phi, Bảo Chấn, Trần Văn Tính, Ngô Thùy, Nguyễn Văn Dung.v.v.."

Thuở nhỏ, trong nhiều lần về thăm quê nội ở Bến Tre (trước kia có tên là tỉnh lỵ Trúc Giang của tỉnh Kiến Hòa), anh đã nhiều lần làm quen với những dòng sông tuổi nhỏ, những vườn dừa và vô số tre trúc mọc cạnh bờ hồ, mé sông, kinh rạch của miền Tây trù phú. Theo quan niệm nho học Đông phương, tre trúc cũng là biểu tượng cho sự ngay thẳng của người quân tử, nên có lẽ vì vậy gia đình anh đã chọn những nghệ danh bắt đầu bằng chữ Trúc như nhạc sĩ Trúc Giang (tên thật Trương Vĩnh Nghĩnh, sanh năm 1935), Trúc Hồ, Trúc Sinh, Trúc Đại (em út).

Sáng tác đầu tay của Trúc Hồ là bài hát “Dòng sông Kỷ Niệm” được viết ra vài tháng trước khi anh vượt biên rời khỏi nước vào năm 1981, khi vừa tròn 16 tuổi để ghi dấu một chuyện tình với người con gái của mối tình đầu đã ngậm ngùi chia tay mỗi người một ngã. Trước đó anh đã tìm cách "vượt sóng" để rời khỏi nước, nhưng cả ba lần đều thất bại. Lần chót khi quyết định "băng rừng" xuyên qua Cam-Bốt để đến Thái Lan bằng đường bộ thì may mắn thành công, nhưng cũng rất gian nan, tưởng đâu đã bỏ mạng giữa rừng. Sau ngày định cư tại Nam California, Trúc Hồ đã hoàn tất năm cuối bậc Trung học và liền theo học cho đến lúc tốt nghiệp lớp sáng tác và piano cổ điển tại trường Golden West và Long Beach. Từ năm 1985-1988 anh cộng tác với các ban nhạc khác nhau và hoạt động trong ca đoàn Hungtinton Beach ở nam California. Những sáng tác tiêu biểu của Trúc Hồ trong thời gian này là Dòng Sông Kỷ Niệm, Nhịp Điệu Tình Yêu, Và Hôm Nay, Tìm Em Trên Phố Lạ, Trái Tim Mùa Đông, Trái Tim Về Đâu, Một Lần Nữa Thôi, Hơi Thở Tình Yêu, Sẽ Hơn Bao Giờ Hết …v..v..

Năm 1990 anh lập gia đình với người bạn gái cùng hoạt động trong ca đoàn là Diệu Quyên và sau này hai người đã có một con gái tên là Trương Ngọc La La và một con trai tên là Trương Anh Lý Bạch. Hiện nay chị Diệu Quyên vẫn là người luôn luôn sát cánh với Trúc Hồ trong tất cả mọi công việc ở Trung Tâm Asia và đài truyền hình SBTN.

Như vậy, ngoài việc nổi tiếng là một nhạc sĩ sáng tác và viết hòa âm, nhạc sĩ Trúc Hồ đã bắt đầu hợp tác với Trung Tâm ca nhạc Asia với vai trò Giám Đốc Âm Nhạc kể từ năm 1989. Anh đã mang đến Trung Tâm Asia nhiều sáng kiến mới lạ để thực hiện những chương trình video có chủ đề thật đặc sắc, mà khởi đầu là video thu hình tại Caesar Palace tại Las Vegas. Sau đó là những chương trình thật giá trị như Thơ và Nhạc, Hoa và Nhạc, Tác Giả Tác Phẩm, Tình Ca Mùa Thu, Trái Tim Mùa Đông, Chiến Tranh Hòa Bình, Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến, Mưa, Hành Trình Biển Đông, Tình Đầu Một Thời Áo Trắng, Mùa Hè Rực Rỡ, Âm Nhạc Vòng Quanh Thế Giới, Dạ Vũ Quốc Tế, 75 Năm Âm Nhạc VN, Nhật Trường, Tình Khúc Sau Cuộc Chiến, Lê Minh Bằng, Bốn Mùa …

Vài năm gần đây, công việc chiếm nhiều thời giờ nhất của Trúc Hồ có lẽ là việc điều hành hệ thống Đài Truyền Hình SBTN do anh làm Giám Đốc. Dạo đó, anh đã can đảm bỏ tất cả vốn liếng của gia đình vào việc thành lập đài truyền hình mà chưa biết tương lai sẽ thành công hay không? Nhưng với sự hỗ trợ của rất nhiều những người thân trong gia đình, bạn bè và những cộng tác viên thật nhiệt tình cùng chung chí hướng; càng lúc người ta càng thấy SBTN lớn mạnh thêm lên với phạm vi phát hình đã bao gồm những nước Mỹ, Canada, Úc và sắp sửa phát hình bên Âu Châu. Vì vậy, hàng ngày công việc của Trúc Hồ lại càng bận rộn hơn với những dự án và chương trình hợp tác cùng các hội đoàn để gây quỹ từ thiện và cứu trợ nạn nhân thiên tai bão lụt, sóng thần ..khắp nơi và giúp đỡ những thương phế binh VNCH còn kẹt lại ở quê nhà (Dư âm của đại nhạc hội “Cám Ơn Anh” hồi năm ngoái vẫn còn vang dội khắp nơi). Những công tác từ thiện và đóng góp cho cộng đồng VN hải ngoại của Trúc Hồ không sao kể hết cho được. Đầu năm nay anh lại có sáng kiến kết hợp một số anh chị em nghệ sĩ lại để làm một đêm tưởng niệm những nghệ sĩ quá cố, nhân ngày giỗ của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng (25-1-2007). Đêm tưởng niệm rất thành công và gây nhiều xúc động. Sắp tới đây, anh sẽ cùng nhiều người khác tham gia chương trình đại nhạc hội để gây quỹ yễm trợ cho việc xây đài tưởng niệm nạn nhân cộng sản vào ngày Công Lý 15 tháng Tư 2007 ở California.



Tóm lại, với một chương trình ca nhạc trực tiếp thu hình cho DVD Asia 54 chủ đề: “Trầm Tử Thiêng – Trúc Hồ” để vinh danh cho hai nhạc sĩ đã có một tình bạn vong niên, tri kỷ với nhau là một việc làm rất có ý nghĩa vào lúc này. Đó cũng là dịp để chúng ta trân trọng và lưu giữ những tác phẩm được sáng tác riêng và chung của hai nhạc sĩ tài danh này. Ngoài ra chương trình này cũng còn là một cơ hội cho mọi người Việt ở trong và ngoài nước, thuộc nhiều thế hệ khác nhau nhưng cùng chung một lòng yêu nhạc, có dịp nhìn lại một cách toàn thể (tuy không đầy đủ) công trình sáng tác tiêu biểu của hai nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng-Trúc Hồ qua những thăng trầm của quê hương suốt nửa thế kỷ dài và đời sống lưu vong hơn ba mươi năm của cộng đồng người Việt khắp nơi.
(30.3.2007)
*Tài liệu tham khảo:
-Tuyển Tập Nghệ Sĩ, Trường Kỳ thực hiện, Montreal, Canada, 1997
-Tác Giả Việt Nam, Lê Bảo Hoàng sưu tập, Songvan, California, USA, 2005
-Tạp chí Hồn Việt Xuân Mậu Dần, No. 172-173, Jan-Feb 1998
-Tạp chí Hồn Việt, No. 198, Mar 2000
-Websites: Xuquang.com, Dactrung.net …

*Viết Về Bài Hát "Hàn Mặc Tử" của Trần Thiện Thanh



*Viết về ca khúc “Hàn Mặc Tử” của Trần Thiện Thanh.
Bài hát Hàn Mặc Tử đã được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác vào năm 1965. Đây là một trong những ca khúc rất thành công của ông, khi kể về cuộc đời tình ái sự nghiệp của một thiên tài trong thi ca Việt Nam, là thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940).

Bài hát bắt đầu bằng các câu thơ của HMT, được ngâm lên cho đoạn dạo đầu (prélude):

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò ”

Sau đó thì tác giả chuyển qua điệu nhạc Bolero :

“Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
LẦU ÔNG HOÀNG đó, thuở nao chân HÀN MẶC TỬ đã qua.
Ánh trăng treo nghiêng-nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng
Tiếng chim kêu đau thương như nức nở dưới trời sương
Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người
Tìm về giữa đêm buồn …

“Đường lên dốc đá, nhớ xưa hai người đã một lần đến
Tình yêu vừa chớm, xót xa cho chàng cuộc sống phế nhân
Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết
Trách thay cho tơ duyên, chưa thắm nồng đã vội tan
Hồn ngất ngư điên cuồng cho trời đất cũng tan thương
Mà khổ đau niềm riêng …"


Bài hát “Hàn Mặc Tử” này đã trở nên thật nổi tiếng ở Việt Nam kể từ lúc được ca sĩ Trúc Mai trình bày ở Đại nhạc hội tại rạp hát Thanh Bình, Sài Gòn vào năm 1965. Sau đó bài hát này được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi cho đến tận ngày hôm nay. Đi đâu cũng nghe người ta hát “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” từ nhà hàng, quán cà-phê, bến xe đò, bến phà, các xe bán hàng rong khắp hang cùng ngõ hẻm. Ca sĩ Trúc Mai đã bắt đầu đi hát từ năm 1959. Cô là một trong bốn ngôi sao của phòng trà Hòa Bình, gồm Bạch Yến, Bích Chiêu (chị của Khánh Hà), Thùy Nhiên và Trúc Mai. Giọng hát của cô rất ngọt ngào, đầm ấm. Cô diễn tả bài hát thật nhẹ nhàng, thoải mái như ru nhè nhẹ vào tai người nghe. Nhờ vậy mà Trúc Mai đã tiếp tục sự nghiệp ca hát của cô trong hơn ba mươi năm. Sau một thời gian dài vắng bóng, cô đã tái ngộ khán giả khắp nơi ở chương trình Paris By Night 78 “Đường Xưa” khi song ca với Phương Hồng Quế trong liên khúc “Giọt lệ đài trang”. Đến với chương trình Asia 50 để tưởng niệm Nhật Trường, ca sĩ Trúc Mai sẽ kể lại các kỷ niệm vui buồn của cô trong những năm trình diễn bài hát Hàn Mặc Tử này. Nhưng hôm nay cô không hát lại ca khúc này, mà để cho giọng ca trẻ Y Phụng ngợi ca Hàn Mặc Tử. Trước đây cũng có vài ca sĩ ở hải ngoại đã hát bài “Hàn Mặc Tử” này. Trong đó có cô ca sĩ mang hai dòng máu Việt-Mỹ là Thúy Hằng đã hát bài này đúng 6.41 phút trong CD “Thúy Hằng 3: Tình Thiên Thu” do Mây Productions sản xuất năm 1998.

Cuộc đời ngắn ngũi 28 năm của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã được không biết bao nhiêu người nhắc đến. Từ những bài báo, tiểu thuyết, cải lương, thoại kịch, phim truyện và hiện nay ở các đài truyền hình bên Việt Nam cũng đang cho trình chiếu một bộ phim truyện vài chục tập về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Ông đúng là một thiên tài bất hạnh trong làng thi ca Việt Nam.

Tên thật của ông là Nguyễn Trọng Trí, sanh tại làng Lệ Mỹ , Đồng Hới, Quảng Trị vào ngày 22 tháng 9 năm 1912, trong một gia đình theo đạo Công giáo. Vóc mình ốm yếu, tính tình ông hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Thân phụ ông làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở. Vì vậy, Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926). Năm 1930 thì Hàn Mặc Tử thôi học vào Qui Nhơn sống với mẫu thân và năm 1932 thì ông xin được việc làm ở sở Đạc Điền tại đó. Trong thời gian này ông có yêu một thiếu nữ tên là Hoàng Cúc ở gần nhà, nhưng mộng ước không thành. Người yêu theo chồng ra Huế sống. Buồn tình, năm 1935 HMT xin thôi việc vào Sài Gòn viết báo. Từ nhỏ Hàn Mặc Tử đã làm thơ đăng báo khắp nơi và ký các bút hiệu như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử (người ở sau tấm rèm lạnh: hàn là lạnh, mạc là bức rèm) và cuối cùng là Hàn Mặc Tử (anh chàng với bút mực: hàn là cây viết, mặc là mực) .



Rất nhiều người vẫn thắc mắc là Hàn Mặc Tử có tất cả bao nhiêu người yêu chính thức?

Có người từng nói rằng “thi nhân muôn đời luôn luôn là giống đa tình”, nên Hàn Mặc Tử cũng có rất nhiều người yêu và cũng có rất nhiều độc giả yêu thơ của chàng, viết thư làm quen. Trong số đó có Mộng Cầm (tức Huỳnh Thị Nghệ) là một thiếu nữ xinh đẹp từ Quảng Ngải vào và trọ học ở nhà người cậu nơi tỉnh Phan Thiết. Sau nhiều lần trao đổi thơ từ, thì họ cùng hẹn nhau để gặp mặt. Cuối tuần, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn đi Phan Thiết bằng xe lửa để tìm thăm Mộng Cầm. Họ đã dạo chơi khắp các thắng cảnh của Phan Thiết, trong đó có “Lầu Ông Hoàng”. Trần Thiện Thanh đã viết: “Lầu Ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua". Ai đã ở tỉnh Phan Thiết thì chắc cũng đã có lần nghe nhắc đến Lầu Ông Hoàng. Đó là một dinh thự to lớn, nguy nga tráng lệ, xung quanh có vườn tược, cây cảnh rất xinh đẹp và nằm trên một ngọn đồi nhìn ra biển xanh. Lâu đài này do một ông hoàng (công tước) người Pháp tên là De Montpensier mua khu đất này và xây cất lên vào năm 1911 để làm nơi nghỉ hè, vui chơi cho gia đình ông. Năm 1917 thì một doanh nhân Pháp mua lại để làm khách sạn cho du khách thuê. (Trong thời chiến tranh sau này, khu Lầu Ông Hoàng này đã bị bom đạn phá hũy hoàn toàn, nay chỉ còn cái nền cao mà thôi). Thuở xa xưa đó, những cặp tình nhân thường hẹn hò nhau đến khu vực này để ngắm cảnh và tâm tình với nhau nơi các băng ghế đá xung quanh vườn, nhứt là trong những đêm trăng sáng. Qua Mộng Cầm, HMT làm quen với cậu của nàng là Thi sĩ Bích Khê (1916-1946) và hai chàng thi sĩ này trở nên thân nhau như tri kỷ. Cuối tuần nào HMT cũng tới ở trọ nhà Bích Khê và hẹn gặp Mộng Cầm (Mộng Cầm ở trọ nhà một người cậu khác). Thời gian đó, không rõ vì lý do gì mà HMT bị bịnh phong cùi (leprosy), hai vành tai ửng đỏ, ngứa ngái khắp nơi. Tuy vẫn thơ từ qua lại, nhưng Mộng Cầm lãng tránh dần thi sĩ, ít khi hò hẹn với nhau. Hàn Mặc Tử âm thầm tìm thầy chạy chửa thuốc men, bịnh tình cũng thuyên giảm dần dần, và thi sĩ vẫn tiếp tục làm thơ, viết báo ở Sài Gòn.

Nhưng qua năm 1938, căn bịnh quái ác này trở nên nặng hơn, nên thi sĩ bèn quay về Qui Nhơn thuê một căn nhà nhỏ trên đồi, sống biệt lập cách xa thành phố, tuyệt giao với tất cả bạn bè. Hàng ngày có một tiểu đồng về nhà mẹ của HMT gần đó lãnh cơm nước, thuốc men đem đến cho chàng. Trần Thiện Thanh đã viết:

“HÀN MẶC TỬ xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà hoang,
MỘNG CẦM hởi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi,
Tình đã lỡ xin một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi,
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.”


Từ khi phát bịnh, cơ thể đau nhức đến phát điên, nhứt là vào những đêm trăng sáng. Hàn Mặc Tử lại càng làm thơ hay hơn, như những câu thơ mà Trần Thiện Thanh đã phổ nhạc:

“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò
Bao giờ đậu trạng, vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ

Không, không, không ! Tôi chẳng bán hòn trăng
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt là anh dại quá
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang ?


Có đêm ông nằm mơ thấy Đức Mẹ hiện về, nên ông đã viết bài “Thánh nữ Đồng Trinh” để tạ ơn:

“Maria! Linh hồn con ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến…

Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương

Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn Thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi ..”


Trong lúc cô đơn, tuyệt vọng chán chường, thi sĩ lại nhận được tin Mộng Cầm đi lấy chồng, nên HMT lại càng đau khổ hơn:

“Trời hởi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẳn làm sao ăn ?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng ?”


Trần Thiện Thanh đã viết lời ca:

“Tìm vào cô đơn, đất Qui nhơn gầy đón chân chàng đến.
Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa,
Chốn hoang liêu tiêu sơ HÀN âm thầm nghe trăng vỡ .”


Hình như cái bịnh phong cùi này thường làm cho Hàn Mặc Tử đau đớn nhiều hơn trong những đêm có trăng. Thi sĩ đã thức trọn đêm để làm thơ:

"Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi …
"

Có lúc thi sĩ Bích Khê ghé thăm, thấy HMT buồn, nên giới thiệu chàng làm quen với người chị của BK là Lê Thị Ngọc Sương (tức là dì ruột của Mộng Cầm) để hai người thơ từ qua lại. HMT đã làm liền một bài thơ sau khi nhìn vào tấm ảnh của Ngọc Sương:

“Ta đề chữ NGỌC trên tàu chuối
SƯƠNG ở cung thiềm nhỏ chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Nư giận đòi phen cắn phải môi”


Đây chỉ là một mối tình đơn phương, vì Ngọc Sương không hề yêu HMT nhưng cô cũng khiến thi sĩ sáng tác được nhiều bài thơ hay. Lúc đó lại có nữ thi sĩ Mai Đình (tên thật Lê Thị Mai) yêu HMT tha thiết, tình nguyện đến ở bên chàng săn sóc, lo thuốc men. Nhưng thi sĩ đã từ chối và chỉ tiếp chuyện với cô được vài lần. Tuy vậy HMT cũng đã làm những bài thơ trong đó có câu:

“Đây MAI ĐÌNH tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt …
Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật …”

Thơ từ qua lại với Mai Đình trong hai năm (1938-1939) rồi HMT tuyệt giao. Có lúc tưởng như bớt bịnh, bạn bè đến thăm, lại mang thơ độc giả ái mộ cho HMT xem (1940). Trong đó có một nữ sinh trung học tên Thương Thương đã làm cho HMT cảm động, và thi sĩ lại tìm được tình yêu trong mộng, như:

“Sầu lên cho tới ngàn khơi
Ai lau ráo lệ cho lời nói ra
chiều nay tàn tạ hồn hoa
nhớ THƯƠNG THƯƠNG quá, xót xa tâm bào …”


Gần cuối năm 1940, căn bịnh của HMT trở nên nặng hơn. Gia đình đành phải đưa ông vào nhà thương phung cùi Qui Hòa, cách Qui Nhơn 5 cây số, nơi có các dì phước người Pháp săn sóc cho bịnh nhân. Lúc này thi sĩ đã bớt điên loạn và dần dần chấp nhận cái chết gần kề. Ông đã mơ ước:

“Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm !”


Ông luôn luôn nhớ đến Phan Thiết, nhớ đến Mộng Cầm và những kỷ niệm thời hoa bướm ngày xưa. Thi sĩ đã viết những câu thơ dưới đây như những lời trăn trối sau cùng trong đớn đau tuyệt vọng:
"… Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu Ông-Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương tha thiết

Ôi ! Trời ơi ! là Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi
Ta đến nơi : nàng ấy vắng lâu rồi !
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ !

Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận cung Hằng
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết.
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư !”


Rời túp lều hoang không đầy hai tháng, thì Hàn Mặc Tử yếu dần và tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, ngày 11 tháng 11 năm 1940. Được tin ông mất, các tờ báo trên khắp nước đã viết bài, đăng tin, ra số đặc biệt tưởng niệm thi sĩ tài hoa nhưng bất hạnh này. Bạn bè, người yêu, độc giả khắp nơi đều thương tiếc, nhưng không một ai đến đưa đám tang thi sĩ HMT. Trần Thiện Thanh đã kết thúc bài hát Hàn Mặc Tử bằng:

“Xót thương thân bơ vơ cho đến một buổi chiều kia
Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao
MẶC TỬ nay còn đâu !

Trăng vàng ngọc trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng !...”


Khi sáng tác ca khúc “Hàn Mặc Tử” này cách đây đúng 40 năm (1965-2005), có lẽ nhạc sĩ Trần Thiện Thanh không ngờ rằng sau này cuộc đời ông cũng có nhiều điểm giống như thi sĩ tài hoa bạc mệnh này. Nơi tỉnh nhà Phan Thiết, từ nhỏ Trần Thiện Thanh đã cùng bạn bè dạo chơi ở những nơi mà ngày xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm từng in dấu. Nên ông đã viết: “Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa, Lầu ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua”.
Vào Sài Gòn lập nghiệp, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã mang theo ông những kỷ niệm này và sáng tác nên “Hàn Mặc Tử”. Trong khoảng thời gian bắt đầu ca hát và viết nhạc từ năm 1958 cho đến năm 1975, ca sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh đã cống hiến cho đời những lời ca tiếng nhạc thật tuyệt vời. Tên tuổi và danh vọng của ông đã sáng rực lên khắp mọi nơi. Đã có không biết bao nhiêu thiếu nữ, khán giả ở mọi lứa tuổi yêu nhạc và yêu thương ông tha thiết. Nhưng kể từ sau năm 1975, thì sự nghiệp của ông dần dần đi xuống, kể cả khi ra hải ngoại, những sáng tác mới của ông cũng không còn xuất sắc được như ngày xưa. Cuối cùng thì ông lại mắc phải một chứng bịnh nan y là ung thư phổi. Những tháng ngày cuối cùng của ông thật là cô đơn, hiu quạnh. Đâu còn thấy lại “ánh đèn sân khấu”, đâu còn thấy lại những khán giả thân thương, những bạn bè xưa, người yêu cũ. Ngay cả bà mẹ già 82 tuổi và cô em gái Như Thủy trong ban Tứ ca Nhật Trường ngày xưa, những đứa con, đứa cháu của ông vẫn còn ở bên Việt Nam nghìn trùng xa cách. Những tuần lễ sau cùng, khi đã tuyệt vọng, ông không chịu nằm trong bịnh viện mà muốn trở về nằm nghỉ nơi nhà riêng. Bên cạnh ông trong giờ hấp hối chỉ có người vợ sau là ca sĩ Mỹ Lan và đứa con trai út mới vừa 3 tuổi, tên là Trần Thiện Anh Chí. Ông đã ra đi trong âm thầm lặng lẽ sau mấy tháng chịu nhiều đau đớn, dày vò vì căn bịnh quái ác này. Cho đến ngày 13-5-2005 thì “trời đất như quay cuồng, khi hồn phách vút lên cao”. Trần Thiện Thanh đã thực sự vĩnh biệt chúng ta khi vừa đúng 62 tuổi đời, là cái tuổi vẫn còn rất trẻ trên đất tạm dung Hoa Kỳ.


*Tài liệu tham khảo để viết bài này:
-Tuyển tập nhạc “Bao giờ anh quên” (25 tác phẩm TTT)
-CD nhạc Thúy Hằng 3 : “Tình Thiên Thu”, Mây Productions, USA, 1998
-Theo chân những tiếng hát, Hồ Trường An, Hoa Kỳ, 1998
-Hàn Mạc Tử (thân thế & thi văn), Trần Thanh Mại, Tân Việt, 1957
-Đôi nét về Hàn Mặc Tử, hồi ký Quách Tấn, Quê Mẹ, Paris, 1988
-Văn Thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ, Khai Trí, Saigon, 1969
-Thơ Hàn Mặc Tử, Sở văn hóa thông tin Nghĩa Bình, 1988
-Website : http:// vietlove.com (viết về Nhật Trường).
-Website : http:// phanthiet.com (di tích, thắng cảnh)

(25.3.2006)